Ngôi nhà mơ ước của mẹ tôi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Mỗi lần về quê, ngước nhìn con rựa, chiếc câu liêm-bộ đồ nghề “đi rú” của cha vẫn còn giắt trên mái nhà, tôi lại nghe như văng vẳng đâu đây bước chân mẹ trong chiều mưa năm nào. Cố nén tiếng nấc mà nước mắt tôi vẫn ứa ra: “Mẹ ơi, đây là ngôi nhà ước mơ một đời của mẹ!”.
Ông bà nội tôi mất lúc cha tôi mới 6 tuổi. Cô tôi một mình vật lộn với mấy sào ruộng nuôi em. Năm 1947, hai chị em theo dân làng tản cư vào núi. Cô tôi mắc bệnh sốt rét. Thuốc thang không có, bệnh cô tôi nặng dần. Lúc lâm chung, cô nắm tay cha tôi nghẹn ngào: “Chị chết cái thân không tiếc, chỉ lo rồi đây ai sẽ bảo ban em”.
Hoàn cảnh gia đình là thế, nhưng cưới vợ chưa đầy 1 năm, cha tôi xung phong đi bộ đội. Để chuẩn bị cho mẹ con tôi ra ở riêng, ông ngoại gọi 3 con rể đến giao nhiệm vụ. Hơn tháng sau thì căn nhà hoàn thành. Trông bên ngoài cũng không đến nỗi nhưng vào trong mới thấy sự chắp vá èo uột: Cột chiếc thấp chiếc cao, đứng chênh vênh trên những tảng đá sần sùi. Kèo, xà lớp cũ lớp mới gá vào nhau. “Hãy tạm vậy đã, khi nào chồng con về rồi tính”-ông ngoại an ủi mẹ tôi.
Vậy là, bắt đầu từ hôm đó, tôi sống với tuổi thơ của mình trong căn nhà, chứng kiến bao nỗi lo toan thắt ruột của mẹ. Nhà cứ 4 năm lại phải thay mái. Dịp đó, cả tháng trời mẹ tôi phải cơm đùm gạo bới lên nguồn cắt tranh. Xong 1 lần lợp nhà, mẹ tôi gầy rộc, mắt trũng sâu... Tuy nhiên, nỗi lo lợp lại nhà chẳng thấm vào đâu với nỗi lo vào mùa lụt bão. Cứ mỗi lần bão nổi là mẹ lại như kiến bò trong chảo nóng, miệng lẩm bẩm cầu trời khấn Phật. Tôi còn nhớ quãng năm 1966, quê tôi có một cơn bão lớn tràn qua. Căn nhà rung lên bần bật. Hoảng hốt, mẹ đội mưa gió sang nhà hàng xóm cầu cứu. Cậu Thể chạy sang bảo: “Chị để em chặt 2 cây cau ngoài vườn vào làm đòn chống, may ra...”. Nói rồi, cậu Thể lao ra vườn, vừa đẵn được một cây thì mẹ cậu đã đứng bên nhà gọi to: “Thể, về mau! Nhà mình cũng sắp sập rồi!”. Hoảng hồn, cậu Thể vứt bịch cây cau xuống sân chạy về. Chẳng còn biết kêu ai nữa, mẹ tôi đành ra vần cây cau vào. Hai mẹ con ráng sức đưa đầu cây lên chống vào xà nhà rồi đóng cọc ghìm chân lại. Mẹ vừa làm vừa khóc, nước mắt nhòe lẫn nước mưa…
Minh họa: Huyền Trang
Minh họa: Huyền Trang
Đất nước thống nhất, cha tôi về hưu với hành trang là chiếc ba lô sờn đựng mấy bộ quần áo, 1 túi bột ngọt và mấy bánh lương khô. “Việc lớn xong rồi, giờ chỉ còn lo làm ăn”-ông nói giọng hoan hỉ. Mẹ tôi cười buồn: “Lâu nay chịu khổ quen rồi, tôi chẳng mơ giàu có; những ngày còn lại chỉ mong có được căn nhà chắc chắn cho khỏi lo lụt bão, ông làm sao được thì làm”.
Quê tôi đất chật người đông, nghề phụ không có nên hết việc đồng là cả làng lại kéo nhau vào rừng kiếm cái sinh nhai, gọi là “đi rú”. Đi rú là nghề cực nhọc. Cha tôi tuy còn sức nhưng cột sống ảnh hưởng nặng do một lần bị bom hất văng khỏi hầm trú ẩn, giờ cứ gánh nặng là đau. Biết vậy nhưng cũng đành liều. Nhiều năm đóng quân ở núi Ba Rền, ông biết nơi nào có nhiều mây. Vậy là, hội đi rú mây được cha tôi lập ra. Mỗi chuyến đi kéo dài 5 ngày. Từ quê đi tàu hỏa hơn 30 km rồi đi bộ tiếp 20 km nữa mới đến nơi. Chọn được chỗ thích hợp, dựng lán trại xong là bắt tay ngay vào việc… Mây mọc thành từng cụm, móc vào nhau lùng nhùng, rút được 1 cây nhiều khi hoa cả mắt. Bóc được mây rồi kéo về lán, tối cơm xong là đốt lửa lên chẻ. Mây chẻ xong từng sợi sẽ được gập đôi lại, làm một con sào dài vắt lên phơi nắng. Đến ngày thứ tư, khi hoàn thành công đoạn sấy mây thì đóng hàng để về.
Tôi học xong đại học, ra trường rồi đi làm xa. Trong quãng thời gian 6 năm, cha tôi vẫn miệt mài với những chuyến “đi rú” như thế. Cho đến một ngày, tôi nhận được thư cha báo tin là đã mua được nhà. Đó là một ngôi nhà gỗ của người làng bên. Bởi làm theo lối xưa, giờ lỗi thời nên họ bán rẻ. Hai mái và hàng cột phụ, cha tôi phải mua gỗ làm mới. Cột chính cũng quá thấp, ông phải đúc thêm một khúc xi măng nối vào. Tuy vậy, để hoàn thiện ngôi nhà thì còn phải xây tường bao quanh nữa. Cha tôi lúc này đã yếu, ông không “đi rú” thường xuyên được; nhưng hễ lúc nào thấy khỏe chút là lại liều đi. Tích cóp thêm lương hưu hàng tháng nữa, mấy năm sau thì bức tường xây đá bao quanh cũng hoàn thành. Khỏi phải nói niềm vui sướng lúc này của mẹ tôi… Tiếc thay, niềm hạnh phúc bình dị đó chẳng được lâu. Chưa đầy chục năm sau, khi ngôi nhà hoàn thiện thì cha mẹ tôi lần lượt qua đời. Tôi lập nghiệp ở nơi xa. Em tôi lấy vợ rồi làm nhà ở riêng. Căn nhà để trống...
Mỗi lần về quê, mở cánh cửa ngôi nhà tối om, tôi lại hít một hơi thở thật sâu để nén nỗi xúc động đang trào dâng. Ngước nhìn con rựa, chiếc câu liêm-bộ đồ nghề “đi rú” của cha vẫn còn giắt trên mái nhà, tôi lại nghe như văng vẳng đâu đây bước chân nhấm nháp sự bình yên trong chiều mưa năm nào của mẹ.
NGỌC TẤN
 

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.