Miên man cùng lúa rẫy

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- “Lúa rẫy” là cách gọi chung cho cây lúa được trồng trên đất rẫy, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Đây là cây lương thực chính của người Tây Nguyên trước đây, có mặt ở hầu hết các huyện trong tỉnh.
Lúa rẫy của người Jrai có nhiều giống, khác nhau về hình thái hạt lúa, độ cao cây lúa, tất nhiên cũng khác nhau về chất lượng gạo. Tựu trung, lúa rẫy được chia làm 2 loại: lúa tuốt (Bdie hpua) có hạt tròn to gấp đôi hạt lúa ta thường thấy, 1 đầu có 2 cánh như mũi tên, đầu kia có đuôi dài nhọn. Loại thứ 2 là lúa gặt, còn gọi là lúa thường (Bdie).
Tên gọi “lúa tuốt” được danh từ hóa động từ “tuốt” khi thu hoạch, có chu kỳ sinh trưởng không dưới 6 tháng, thân lúa cứng cáp, cao đến ngang ngực người phụ nữ trưởng thành; gié lúa lưa thưa, dài nên tuốt lúa cho vào gùi đeo sau lưng vẫn nhanh tiện hơn. Nói là tuốt, nhưng kỳ thực từ ngày có chiếc liềm tay, người nông dân đã biết gặt ngang gié lúa mang về rẫy phơi, đập/vò lấy hạt lúa.
Lúa tuốt chỉ phát triển ở rẫy mới đốt phá, trồng theo lối chọc trỉa, từ đầu tháng 6 khi mùa mưa bắt đầu, đến đầu tháng 12 thì thu hoạch. Sức chịu hạn, khả năng miễn dịch các loại sâu bệnh là đặc điểm ưu thế của giống lúa này. Lúa tuốt không thích hợp với bất kỳ loại phân bón nào, chỉ trồng được không quá 2 lần trên đất mới khai khẩn; nếu cố trồng lần nữa, cây lúa chỉ cao đến đầu gối rồi lụi dần không một thứ phân bón nào cải thiện được.
Trò chuyện cùng tôi, anh Rơ Ô Trúc-giảng viên Trường Chính trị tỉnh (quê ở xã Đất Bằng, huyện Krông Pa) hồi tưởng: “Nồi cơm gạo rẫy đương sôi, chín tới tỏa hương thơm khó tả lắm. Hạt cơm tơi mềm, nhai kỹ có vị béo, ngòn ngọt tỏa ra trong vòm miệng. Cơm gạo rẫy ăn kèm với mắm, cá khô nướng hay đơn giản thì muối lá é, muối ớt thế thôi đã quên… no. Nếu gạo rẫy nấu theo kiểu đồ xôi, hạt cơm tơi rời bốc từng nhúm cho vào miệng kèm với thịt bò một nắng nướng, gà nướng thì... ngon thôi rồi!”.
Người dân trao đổi kinh nghiệm trồng lúa rẫy. Ảnh: Ngọc Thu
Người dân trao đổi kinh nghiệm trồng lúa rẫy. Ảnh: Ngọc Thu
Vì năng suất thấp, không phải là cây hàng hóa, lại “kén” đất nên dù thơm ngon thế nào đi nữa lúa tuốt cũng dần khan hiếm! Thêm vào đó, tác động của biến đổi khí hậu, mưa nắng 2 mùa không còn rõ rệt như trước cũng ảnh hưởng đến năng suất giống lúa này. Theo tìm hiểu, riêng ở huyện Krông Pa, giống lúa này vẫn còn truyền giữ, như ở buôn Ma Yai (xã Đất Bằng), buôn Chư Jú (xã Ia Rsai), buôn Tring (xã Krông Năng), buôn Chai (xã Chư Drăng), buôn Puông (xã Ia Rmok)… với diện tích gieo trồng rất hẹp. Lúa tuốt quý hiếm nên gạo lúa tuốt chỉ dùng để biếu, dùng để đãi khách quý.
Khẳng định chất lượng dinh dưỡng của gạo lúa tuốt, ông Ama H’Nhin (buôn Ma Nhe, xã Đất Bằng) cho hay: “Người già, trẻ sơ sinh ngày trước chỉ có ăn cháo gạo rẫy nấu đặc cho thêm chút muối hạt, chút đường mía thế mà lớn lên khỏe mạnh, thế mà kéo dài tuổi thọ chứ có uống loại sữa nào đâu. Bà chị tôi, mấy năm cuối đời, tuổi ngoài 90 cứ ước thèm chén cháo gạo rẫy, cả nhà tìm xin khắp xã mà bữa có bữa không. Gạo rẫy giờ đã khan hiếm lắm. Lớp trẻ sau này chắc chỉ nghe chứ chẳng bao giờ được nhìn thấy hạt lúa, được ăn chén cơm gạo rẫy nữa rồi!”.
Cũng là lúa rẫy nhưng “lúa thường” (lúa gặt) phân biệt với “lúa tuốt” bởi chu kỳ sinh trưởng chỉ hơn 4 tháng. Tuy gieo trồng trên đất rẫy, theo phương thức chọc trỉa nhưng lúa gặt không quá khó tính trong việc chọn thổ nhưỡng, có thể trỉa nhiều lần trên 1 diện tích đất; được bón phân, phun thuốc diệt sâu bệnh.
Lúa gặt có họ hàng gần với các giống lúa nước giống mới nên có nhiều điểm giống: thân cây thấp, gié lúa dày nên thu hoạch bằng cách gặt liềm vẫn thuận tiện hơn. Hạt gạo lúa gặt tròn, thường có màu nâu đỏ hoặc trắng đục. Cơm gạo lúa gặt tơi, cứng; nhai kỹ có dư hậu vị béo ngọt. Trên những miếng đất rẫy triền dọc theo khe suối, gần nguồn nước, bà con nông dân vẫn trồng giống lúa này thay cho các loại cây lương thực ngắn ngày khác, theo hướng luân canh nhằm cải tạo đất. Giá bán gạo lúa gặt thấp hơn so với gạo lúa nước 4 tháng, thường chỉ dùng để ủ/nấu rượu hoặc làm thức ăn cho gia cầm.
“Hạt gạo là hạt ngọc của trời”, miên man vậy thôi chứ chẳng dám so sánh hơn thua!
NGUYỄN ĐÌNH

Có thể bạn quan tâm

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Mở lối vào thế giới sắc màu

Mở lối vào thế giới sắc màu

(GLO)- Từ nét màu nước chấm phá, mực tàu loang trên giấy dó, đến những dòng thư pháp bay bổng hay gam màu rực rỡ của tranh sáp màu, acrylic - tất cả hòa quyện tại những lớp học vẽ. Mùa hè, những lớp học nhỏ ấy lặng lẽ góp phần vun đắp tâm hồn nghệ thuật cho nhiều bạn trẻ.

Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

Cặp đôi nghệ sĩ Nguyễn Cơ-Hồng Mai: Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

(GLO)- Cùng sinh năm rồng (1988) và lớn lên với tình yêu dành cho từng nhịp vũ đạo, Nguyễn Văn Cơ và Trần Thị Hồng Mai-hai nghệ sĩ trưởng thành từ Nhà hát Ca múa nhạc tổng hợp Đam San trở thành cặp đôi hiếm hoi của làng múa ở cao nguyên Pleiku, luôn song hành cả trên sân khấu và trong đời sống.

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

(GLO)- Vở diễn Trò chơi của quỷ do Ðoàn ca kịch bài chòi Bình Ðịnh (thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Gia Lai) dàn dựng vừa giành huy chương đồng tại Liên hoan Nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc về “Hình tượng người chiến sĩ Công an nhân dân” lần thứ V-năm 2025.

"Núi trên đất bằng"

"Núi trên đất bằng"

(GLO)- Tiến sĩ Hà Thanh Vân đã nhận xét Tiểu thuyết "Núi trên đất bằng" của Võ Đình Duy là một tác phẩm văn chương đầu tay ra mắt năm 2025, đánh dấu bước chuyển đầy bất ngờ từ một kiến trúc sư trẻ sống ở Gia Lai sang hành trình kiến tạo thế giới văn chương.

NHÀ THƠ ĐÀO AN DUYÊN: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

Nhà thơ Đào An Duyên: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

(GLO)- Với nhà thơ Đào An Duyên, đọc và viết chính là hành trình nuôi chữ. Trong hành trình ấy, chị chọn một lối đi riêng, chắt chiu xúc cảm, gửi tiếng lòng vào từng con chữ với niềm mong giữ lại những xanh tươi cuộc đời, từ đó góp thêm một giọng thơ giàu hương sắc cho văn chương Gia Lai.

BẢO TỒN CÁC KỊCH BẢN TIÊU BIỂU CỦA HÁT BỘI BÌNH ĐỊNH: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

Bảo tồn các kịch bản tiêu biểu của hát bội Bình Định: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

(GLO)- Hát bội Bình Định là một di sản văn hóa đặc sắc với nhiều vở tuồng kinh điển như: Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Ngũ hổ Bình Tây, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo (còn có tên khác là Chém cáo, Cổ miếu vãn ca) của Nguyễn Diêu, Trầm hương các, Diễn võ đình và Cổ thành… của Đào Tấn.

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Tôi không phải một dịch giả chuyên nghiệp - mào đầu vậy hoàn toàn không phải để biện hộ cho những sơ suất, sai sót và thô lậu mà bất cứ ai khi chạm tay vào việc dịch nói riêng, việc chữ nghĩa nói chung, dẫu là tay thuận hay tay ngang, đều phải đối mặt và chịu trách nhiệm.

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Để chào đón thời khắc đặc biệt của đất nước, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ cao cả với vai trò, vị thế là cơ quan ngôn luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ mà người đứng đầu hệ thống Mặt trận đã tin tưởng giao phó; kể từ tháng 7.2025, Báo Đại đoàn kết ra mắt ấn phẩm Tinh hoa Việt bộ mới.
Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

(GLO)- Nếu như Tây Bắc có “tứ đại danh đèo”: Mã Pí Lèng, Ô Quy Hồ, Pha Đin, Khau Phạ thì vùng duyên hải miền Trung lên đại ngàn Tây Nguyên cũng có “ngũ danh đèo”: An Khê, Phượng Hoàng, Khánh Lê, Ngoạn Mục, Violak.

default

Địa phận Phủ Hoài Nhơn được xác lập năm Hồng Đức thứ 2 (1471), là miền “viễn châu” khá rộng; sau hơn 550 năm, vùng đất rộng lớn lúc ban đầu được phân chia thành nhiều tỉnh thuộc Nam Trung bộ và Bắc Tây Nguyên. 
null