Nào có xa xôi gì, chỉ mới cuốc bộ được chừng nửa cây số mà lưng áo tôi đã dâm dấp mồ hôi. Krông Pa mùa này chỉ sang trưa một chút là đã có cảm giác bức bối. Trên đường tìm đến nhà Kpă Jao, tôi đã phải chật vật lục tìm trong trí nhớ, rằng hình như tôi đã gặp ông? Cuối cùng thì ký ức cũng chợt lóe lên. Phải, tôi đã gặp ông nhưng mà đã hơn hai chục năm rồi. Chẳng là dạo đó, cái tin Kpă Jao tiên phong đưa cây lúa nước, cây mì, thuốc lá về xã rồi bỏ công thuyết phục, chỉ bảo cho từng nhà làm theo đã làm tôi tò mò pha lẫn chút ngạc nhiên. Vậy là, không chút do dự, tôi xuống tìm ông. Rủi cho tôi hôm đó ông phải đi có việc gấp, vậy là chỉ kịp bắt tay hẹn dịp khác. Chẳng ngờ cái “dịp khác” ấy lại kéo mãi cho tới bây giờ.
Vẫn là khu vườn cũ nhưng một bên hông nhà mát rượi bóng tre Bát Độ, trông ra cánh đồng lúa ngăn ngắt xanh. Không gian rười rượi những cơn gió lướt về từ cánh đồng ăm ắp nước. Một nơi sống thật lý tưởng giữa vùng đất nắng gió lại càng có ý nghĩa khi nó cũng chính là nơi ông đã khởi động cho bà con những đổi thay trong nếp nghĩ, cách làm.
Ông Kpă Jao và cánh đồng lúa nước "lịch sử". Ảnh: Ngọc Tấn |
“Vạn sự khởi đầu nan”
Những năm mới giải phóng, buôn Chính Đơn (tên cũ của buôn Chính Hòa) đói lắm. Chưa đến mùa phát rẫy mà nhà ai cũng hết lúa ăn. Cứ chiều chiều, nơi mấy gốc cây có bóng mát trong buôn, người già, con nít lại xúm hết lại đưa cặp mắt bồn chồn ngó ra đường ngóng người nhà đi đào củ mài về. Ngóng cho đỡ buồn con mắt chứ biết tìm củ mài khó lắm, phải vào trong núi nên con gà vừa nhảy xuống đất kiếm ăn đã phải đi. Trước còn đỡ, giờ nhiều nhà đi, chỗ nào cũng chi chít hố sâu như con mắt đói. Đào cả ngày có khi chỉ được mươi củ bằng cán dao, đủ nấu được bữa cháo muối. Bao nhiêu năm rồi, tình cảnh ấy dường như ai cũng chỉ còn biết chấp nhận, bấm ngón tay chờ đến lúc ông trời đổ mưa.
Giọng ông Kpă Jao thoáng một chút trầm buồn khi nhớ về chuyện cũ: “Chẳng phải riêng bà con trong buôn, vợ chồng mình bấy giờ cũng đói. Cùng đi bộ đội về rồi cưới nhau, vợ chồng với 4 đứa con lít nhít mà cũng như dân làng chỉ biết trông vào cây lúa rẫy. Năm nào giỏi làm, được mùa thì cũng thiếu ăn 3-4 tháng. Vẫn biết cứu cánh chỉ có thể là cây lúa nước nhưng ngặt nỗi bấy giờ lại chẳng biết gì về nó. Thật may, giữa lúc đó, xã có ý cử mình đi Kon Tum học sơ cấp nông nghiệp. Mình đồng ý đi liền. Cơ hội này mà bỏ lỡ thì không bao giờ còn mong hết đói được nữa”.
Tin Kpă Jao bừa đất làm lúa nước khiến cả buôn Chính Đơn xôn xao. Ai cũng đến tận nơi xem thử. Nhìn Kpă Jao quần áo lấm lem bùn đất, hết hùng hục bừa đất, rắc phân rồi cắm cúi cấy lúa, ai cũng lắc đầu. Có người bảo: Làm lúa nước nhiều việc mà việc nào cũng khó thế này, làm cây lúa rẫy chỉ chọc cái lỗ, bỏ hạt xuống rồi làm cỏ là có ăn, không sướng hơn à? Người khác thì nói: Làm lúa nước người lúc nào cũng như con trâu vấy bùn, cực nhọc lắm. Nhưng ông Kpă Jao vẫn quyết tâm làm. Vận dụng những kỹ thuật học được, ông quyết chăm cho 7 sào lúa thật tốt, tin chắc kết quả nhìn thấy tận mắt sẽ thay cho sự thuyết phục, vận động dù có đến trăm lần cũng chỉ như nước đổ lá môn.
Những con trăng dài như leo núi đi qua rồi cũng tới ngày lúa chín. Hôm thu hoạch, Kpă Jao báo tin cho mọi người trong buôn đến xem. Lúa rẫy, ai giỏi làm cũng chỉ được 5 tạ/ha nhưng 7 sào lúa nước của Kpă Jao được tới 60 bao, tức 3 tấn. Nhìn đống lúa to lù trước mặt, những lời bàn tán sôi lên như họp chợ. Kpă Jao quyết định làm một bữa rượu mừng lúa mới đãi dân làng. Rượu ngấm, ý nghĩ cũng ngấm: Muốn no thì phải chịu khó làm theo cái mới thôi. Ông Ma Nhúi-anh ruột Kpă Jao là người đầu tiên giơ tay xin làm theo. Rồi sau đó là lần lượt những cánh tay khác.
Ông Kpă Jao vui vẻ: Ai chịu làm sẽ đến tận ruộng chỉ từng việc như đã hứa lúc đầu. Vậy là phải gác bỏ việc nhà, thậm chí lúc ăn cơm cũng không được yên. Vợ trách: “Đang không lại làm cái việc “ôm rơm vào bụng”, ông chỉ cười. Ông hiểu đã nhen lên được phong trào, một người thất bại, thoái chí cũng làm lây người khác. Sự nhiệt tình của ông đã biến điều tưởng như không thể hóa dễ với mọi người. Kịp đến khi có nguồn nước của công trình thủy lợi Ia Mlah thì phong trào làm lúa nước đã lan ra toàn xã.
Thành công với cây lúa nước, ông Kpă Jao bắt đầu nghĩ đến điều xa hơn. Làm lúa chỉ giải quyết được cái đói chứ không hết nghèo được. Muốn thoát nghèo phải trồng cây mì, cây thuốc lá như các nơi khác đang làm. Lúc này, ông lại đang giữ chức Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam xã nên thấy mình càng phải có trách nhiệm lớn hơn trong việc giúp bà con thoát nghèo. Cây mì thì bà con đã trồng từ bao đời nay nhưng là giống mì gòn, chỉ dùng để ăn và ủ rượu. Nay nghe Kpă Jao vận động trồng giống mì mới ai cũng nghi ngại. Nói sang cây thuốc lá lại càng khó hơn. Nào tưới nước, bón phân, phun thuốc; lại còn làm lò sấy, giữ lửa sao cho lá thuốc đẹp màu… mới nghe đã nhức hết cả đầu. “Lại cũng như lúa nước, mình phải làm gương trước thôi”-ông Kpă Jao tự nhủ.
Nhân có ông Tri ở Phú Cần đang tìm người có đất để hợp đồng trồng cây thuốc lá, ông Kpă Jao lập tức đến rủ ông. Qua 2 mùa, nhờ sự chỉ bảo tận tình của ông Tri, ông Kpă Jao đã nắm chắc được kỹ thuật canh tác. Để không mất thời gian đến chỉ bảo từng người như làm lúa nước, ông “tập huấn tập thể” bằng cách kêu người đi làm công cho mình. Cứ mỗi ngày công “tập huấn”, mỗi người được Kpă Jao trả 1 kg gạo, 5 ngàn tiền công. Có tiền, có gạo lại được bày tỉ mỉ cách làm mì, làm thuốc lá, ai cũng tranh nhau xin làm. Mỗi ngày, khoảng 10-12 người được “tập huấn” bằng cách như thế, chẳng bao lâu phần lớn buôn Chính Đơn đã thành thạo cách trồng cây thuốc lá, cây mì.
“Những năm ấy, tôi làm ăn hăng say lắm. Không chỉ làm cho mình hết nghèo, còn phải làm để nêu gương cho bà con nữa. Năm cao nhất, tôi trồng 4 ha thuốc lá, 1 ha lúa rẫy, 9 sào lúa nước, hơn chục ha mì, chăn nuôi hàng chục con bò. Mỗi năm, gia đình thu hàng trăm triệu đồng. Riêng thuốc lá, có năm thu 150 triệu đồng, tương đương 20 cây vàng thời điểm bấy giờ”-ông Kpă Jao kể.
Vai nào cũng gánh
Căn phòng khách của gia đình ông Jao xà ngang, xà dọc lẫn 4 bức vách đều treo kín bằng khen, giấy khen. Bắt đầu là nhân viên thống kê rồi cán bộ Văn phòng UBND xã, tiếp đó là 4 năm làm Trưởng Công an xã, 10 năm là Xã đội trưởng, 15 năm là Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam xã; 9 nhiệm kỳ là Đảng ủy viên và đại biểu HĐND xã. Bất kỳ nhiệm vụ nào được phân công, ông cũng sẵn sàng gánh vác. Đặc biệt, 15 năm giữ cương vị Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam xã, ông luôn được công nhận là cán bộ Mặt trận tiêu biểu.
Ông Kpă Jao. Ảnh: Ngọc Tấn |
Sự độc đáo trong nghệ thuật vận động, hòa giải của ông là kết hợp một cách khéo léo giữa luật tục truyền thống và pháp luật. Về điều này, ông kể cho tôi nghe một vụ việc tiêu biểu: Một thanh niên bên buôn Prông mới mua chiếc điện thoại. Mấy người bạn ở buôn Hòa Mỹ muốn xem nhưng cậu này không cho. Nghĩ rằng cậu này lên mặt hợm của, họ giật lấy chiếc điện thoại và “tước” luôn 400 ngàn đồng. Tức khí, cậu này chạy về buôn kéo mấy chục thanh niên cầm dao, gậy sang buôn Hòa Mỹ “hỏi tội”. Không chịu lép, thanh niên bên Hòa Mỹ cũng tập hợp mấy chục người đánh lại. Cuộc hỗn chiến làm náo động cả 2 buôn. Phó Chủ tịch UBND xã đến can thiệp cũng không sao vãn hồi được trật tự.
Nghe tin, ông Kpă Jao lập tức tìm đến. Thái độ bình tĩnh, lý lẽ cứng rắn mà mềm dẻo của ông làm 2 đám thanh niên dịu dần rồi phải chịu giải tán. Để giải quyết triệt để mâu thuẫn, ông yêu cầu bên có lỗi phải chịu phạt bằng việc tổ chức uống rượu hòa giải; sau đó hai bên ký cam kết xóa bỏ xích mích.
“Chẳng có gì là to tát đâu, mình chỉ làm những điều mình thấy phải làm thôi mà”-ông Kpă Jao cười khiêm tốn. Tôi tò mò ngắm thân hình chắc nịch, gương mặt khoáng đạt đầy kiên nghị của ông. Gió từ cánh đồng lúa nước ông tạo dựng buổi ban đầu vẫn miên man trong cái nắng trưa bức bối. Tôi cảm giác những cơn gió như thổi qua bao mạch đất từng thấm vị mồ hôi mặn vì buôn làng của một con người.