Kỳ cuối: Dấu ấn Lai Châu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Đằng sau việc hoàn thành Nhà máy thủy điện Lai Châu (huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) vượt tiến độ một năm là những câu chuyện dài của những người đi chinh phục dòng sông.


Biến lòng sông thành đại lộ

Ngược dòng sông Đà những ngày rét mướt, từng đoàn xe hạng nặng ì ạch kéo thiết bị từ xuôi ngược đèo Ô Quy Hồ lên Tây Bắc. Trên công trình thủy điện Lai Châu những ngày cuối năm 2016, những công nhân cuối cùng đang sơn sửa, lau chùi các thiết bị cho ngày khánh thành nhà máy.

 

Lắp đặt rôtô tổ máy phát điện số 1 nặng cả nghìn tấn đảm bảo an toàn, đưa tổ máy số 1 đi vào vận hành trước ba tháng, mang lại nguồn lợi cho nhà máy hàng ngàn tỉ đồng.
Lắp đặt rôtô tổ máy phát điện số 1 nặng cả nghìn tấn đảm bảo an toàn, đưa tổ máy số 1 đi vào vận hành trước ba tháng, mang lại nguồn lợi cho nhà máy hàng ngàn tỉ đồng.

Kỹ sư Vũ Văn Tùng, phó trưởng phòng kỹ thuật an toàn (Ban quản lý dự án thủy điện Sơn La, quản lý đầu tư thủy điện Lai Châu), người khăn gói lên thủy điện từ những năm 2007, thở phào:

“Gần sáu năm rồi anh ạ! Chừng ấy năm với hàng vạn con người dãi nắng dầm mưa, ngày đêm trăn trở, dồn hết tâm lực vào đây. Thành quả là công trình về đích trước một năm, phát điện sinh lợi hơn 4.000 tỉ đồng”.

Ông Tùng kể việc đắp đập ngăn sông không khó, nhưng để vận chuyển hơn 37.000 tấn thiết bị, có nhiều thiết bị nặng 300-1.000 tấn từ cảng Hải Phòng lên thượng nguồn sông Đà gần như bế tắc.

Từ các cảng vùng Đông Bắc, để lên Tây Bắc có hai cung đường chính đều dài khoảng 600km tính từ Hà Nội. Nếu đi qua Lào Cai buộc phải vượt đèo Ô Quy Hồ. Còn đi ngả Hòa Bình, Sơn La qua Điện Biên để lên Lai Châu thì vượt đèo Pha Đin.

Hai con đèo nằm trong “tứ đại đèo” nổi tiếng Tây Bắc đều hẹp, hiểm trở, cầu rất yếu nên phương tiện siêu trường, siêu trọng chở các thiết bị nặng gần như không thể vượt qua. Các kỹ sư nhà máy cùng đối tác vận chuyển ngồi lại, bắt đầu nghĩ đến tận dụng dòng sông Đà.

Quyết định biến dòng sông Đà thành “đại lộ” vận chuyển thiết bị nặng là một giải pháp táo bạo với điều kiện: khi mực nước sông Đà dâng cao nhất vào mùa mưa lũ thì việc vận chuyển mới khả thi.

Kỹ sư Nguyễn Văn Hợp, người tham gia vận chuyển thiết bị, kể rằng để đưa một máy biến áp nặng 300 tấn, hoặc cái cần cẩu cả ngàn tấn từ cảng Hải Phòng lên thủy điện Lai Châu phải mất 2-3 tháng trời.

Từ cảng, thiết bị đưa lên các xe siêu trường, siêu trọng kéo vào sông Gấm. Các thiết bị này được cho xuống sà lan kéo ngược sông lên thượng nguồn rồi vận chuyển bằng đường bộ vào đập thủy điện Hòa Bình.

Để vượt hồ Hòa Bình, phải lợi dụng nước hồ dâng cao, các thiết bị này một lần nữa được chuyển xuống sà lan và kéo ngược lên gần hồ thủy điện Sơn La. Từ hồ Sơn La ngược dòng sông Đà, chúng được kéo lên Lai Châu.

Việc kéo các thiết bị hàng trăm tấn ngoài biển không khó vì tàu thủy có các thiết bị đo độ nông sâu nhưng sà lan đi trong lòng hồ thì không thể.

Lòng sông Đà lô nhô ghềnh thác và đá cuội giăng ngang sông, chỉ cần một va chạm sà lan tròng trành thì máy biến áp hàng triệu USD có thể nằm lại đáy sông.

“Để các thiết bị đi trong lòng hồ an toàn, các thuyền nan của ngư dân dày dạn kinh nghiệm nhất được thuê dùng sào để đo độ nông sâu và đi trước dẫn đường.

Các nhà máy thủy điện phải cập nhật mực nước thường xuyên, chỉ cần nước hồ trồi sụt nửa mét thì không thể chuyển thiết bị lên sà lan” - kỹ sư Hợp nhớ lại.

Những chiếc xe siêu trường, siêu trọng với hơn 100 bánh xe cùng sáu đầu máy kéo phải làm việc nhiều ngày đêm liền mới đưa các thiết bị từ lòng hồ về đến nhà máy trong sự thở phào của mọi người.

Kỹ sư Tùng chia sẻ: “Chúng tôi phải cưng như cưng trứng những thiết bị nặng hàng ngàn tấn này, bởi nếu chúng hỏng hóc phải gửi về nước đã sản xuất chúng để sửa chữa, có thể mất hàng năm trời. Chưa kể việc vận chuyển phải chờ đến mùa mưa nên công trình có thể bị lùi một đến vài năm”.

Công trình thuần Việt

 

Nhà máy thủy điện Lai Châu tự hào là công trình “thuần Việt” khi gần như các hạng mục đều do kỹ sư, công nhân người Việt đảm trách.
Nhà máy thủy điện Lai Châu tự hào là công trình “thuần Việt” khi gần như các hạng mục đều do kỹ sư, công nhân người Việt đảm trách.

Đi một vòng thủy điện Lai Châu, chúng tôi không khỏi bất ngờ khi gặp toàn kỹ sư người Việt. Băng qua con đập chính cao 137 mét, rộng hơn 600m, ông Tùng bảo rằng ngày trước đây là một ngọn núi cao đầy vắt rừng và muỗi.

Gạo thóc không có, điện đài, giao thông cũng không. Sóng điện thoại duy nhất chỉ có Viettel nhưng hay gặp trục trặc.

“EVN phải mở hơn 30km từ đường chính vào thủy điện để thi công. Con đường mở ra, dân các bản làng vui khấp khởi.

Còn để có điện, ban quản lý quyết định kéo 93km đường dây 110kV từ đèo Pha Đin (tỉnh Điện Biên) vào đây để phục vụ công trường, những ngôi làng xung quanh cũng có điện thắp sáng” - ông Tùng kể.

Thời cao điểm công trường có khoảng 7.000 người nhưng chừng đó họ phải dựng lán trại ở, tắm nước sông, suối, mùa mưa đường sạt lở chia cắt, lương thực thiếu và mọi thứ rất khó khăn. Gà, vịt, heo, rau... người dân trong các bản làng chỉ có để cung cấp vừa đủ nhu cầu của họ nên chẳng ai thiết bán mua với công nhân.

“Thời tiết có lẽ là thứ đe dọa lớn nhất đến công trình, có những đợt mưa dầm dề đến ba tháng trời, mọi thứ như khựng lại. Rồi các mái tôn tạm bợ của ban quản lý bị lốc xoáy cuốn bay sạch, khiến mọi thứ ướt nhẹp. Mình chịu ướt không sao nhưng tài liệu mà ướt thì chết dở nên rất khó khăn” - ông Tùng nhớ lại.

Kỹ sư Vũ Văn Tùng cho rằng công trình Lai Châu mang dấu ấn rất lớn của các kỹ sư Việt Nam, trừ các máy móc, thiết bị nhập ngoại mới cần chuyên gia nước ngoài theo lắp ráp.

“Có những thiết bị phức tạp với gần 250.000 chi tiết, nặng hơn 1.000 tấn và đòi hỏi độ chính xác cao. Chúng tôi phải lắp ráp cẩn trọng đúng một năm trời mới hoàn thành.

Những thành phần thay vì nhập ngoại như các thủy điện trước đó thì ở thủy điện Lai Châu, Việt Nam hoàn toàn làm chủ công nghệ như cửa van, khe van, các hệ thống cẩu, đập tràn xả lũ, cửa lấy nước...” - ông Tùng nói.

Kỹ sư Nguyễn Thanh Oai, phó giám đốc ban điều hành Công ty CP lắp máy LILAMA 10, cho biết có thời điểm công ty phải huy động tới 1.200 cán bộ, công nhân chia làm ba ca ngày đêm trên công trường.

Cái khó nhất của nhà máy này là đường ống áp lực quá lớn, đường kính 10,5 mét, độ dốc lớn nên thi công khó khăn, nhưng công nghệ thực hiện hoàn toàn do Việt Nam đảm nhiệm.

Chính vì vậy, có thể coi Nhà máy thủy điện Lai Châu là một công trình thuần Việt, và đó cũng là dấu ấn lớn nhất được tạo ra trong lịch sử thi công các nhà máy thủy điện ở Việt Nam.

Theo tuoitre

Có thể bạn quan tâm

Hào hùng một thời hoa lửa

Hào hùng một thời hoa lửa

“Trưa 2/4/1975, thanh niên sinh viên học sinh (TNSVHS) nội thành chiếm rạp hát Hòa Bình (Đà Lạt), treo lá cờ Mặt trận Giải phóng và băng rôn “Hoan hô Quân Giải phóng miền Nam” lên nóc rạp hát.

Mùa vàng dưới những rặng cây

Mùa vàng dưới những rặng cây

Những quả cây vàng ươm rụng xuống nằm lổn nhổn dưới rừng cây đã đến mùa thu hoạch. Từng đoàn người lụm cụm nhặt lấy phần hạt tinh túy nhất mang về cho chủ vườn, đưa vào các nhà máy, chế biến thành loại hạt giá trị cao cung ứng cho thị trường khắp thế giới.

Xanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ cuối

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ cuối: Vươn mình trong kỷ nguyên mới

(GLO)- 50 năm sau ngày giải phóng, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cùng nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, vùng đất “nóc nhà” của Đông Dương chuyển mình mạnh mẽ. Bước vào giai đoạn mới, vùng Tây Nguyên đang đứng trước vận hội mới, phát huy lợi thế vươn lên cùng đất nước.

Các dự án triển khai dang dở, kéo dài (trong ảnh là đoạn đường cụt giữa TP. Gia Nghĩa do vướng mặt bằng) làm lãng phí nguồn lực đầu tư công

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ 4: Gia Lai ngày ấy, bây giờ...

(GLO)- Sau ngày giải phóng năm 1975, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Gia Lai đã cùng chung sức, kiến thiết lại quê hương từ đống hoang tàn của chiến tranh. Đến nay Gia Lai đã vươn mình phát triển mạnh mẽ, từ đô thị đến nông thôn khoác lên mình màu áo khang trang. 

Chuyện đời mẹ liệt sĩ 115 tuổi

Chuyện đời mẹ liệt sĩ 115 tuổi

Năm nay, cụ Nguyễn Thị Tý ở xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, Hà Nội đã sống hơn trăm năm có lẻ, mà phần “lẻ” ấy lại không hề nhỏ tẹo nào. Ở tuổi 115, cụ hiện vẫn khỏe mạnh bên các con và 23 cháu, 43 chắt và 14 chút nội, ngoại…

Xanh lại chiến trường Tây nguyên Kỳ 2

E-magazineXanh lại chiến trường Tây nguyên Kỳ 2: Buôn Ma Thuột từ hoang phế vươn lên thủ phủ Tây Nguyên

(GLO)- Nếu chiến thắng Đak Tô-Tân Cảnh ( năm 1972) xoay chuyển cục diện chiến trường Tây Nguyên thì chiến thắng Buôn Ma Thuột đánh sập “tử huyệt” của địch, mở ra Chiến dịch Hồ Chí Minh để Bắc-Nam sum họp một nhà. Từ một thị xã hoang phế, Buôn Ma Thuột ngày nay xứng đáng là thủ phủ Tây Nguyên

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Từ bao đời nay, với người dân trên đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi), mỗi khi có người thân gặp nạn ngoài biển mà không tìm thấy xác, gia đình họ sẽ tìm đến “pháp sư” nhờ nặn một “hình nhân thế mạng” bằng đất sét, thực hiện nghi lễ chiêu hồn, nhập cốt rồi mang đi chôn như người quá cố.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 5: Chuyện về người chiến sĩ nhiều lần cảm tử, góp công giải phóng miền Nam

Phải hẹn rất nhiều lần, tôi mới gặp được người cựu chiến binh, Đại uý Nguyễn Đức Trọng (SN 1956, quê quán xã Long Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An, người góp công cùng đồng đội tham gia giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.