Khung cảnh 'những kim tự tháp' trăm năm ở miền Tây

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Màu nắng cuối ngày vàng vọt phủ lên những lò gạch gốm tuổi đời trăm năm đỏ quạnh nằm hai bên bờ kênh trông như những kim tự tháp, tạo nên khung cảnh huyền ảo, lạ mắt.
Từ hướng Cầu Mỹ Thuận xuôi về trung tâm thành phố Vĩnh Long, đi dọc theo sông Cổ Chiên về Mang Thít… bạn sẽ thấy hàng trăm lò gạch gốm có tuổi đời trăm năm nằm san sát cạnh bờ sông. Nơi này, người ta gọi là "vương quốc" gạch gốm miền Tây. Ảnh: BÙI VĂN HẢI
Từ hướng Cầu Mỹ Thuận xuôi về trung tâm thành phố Vĩnh Long, đi dọc theo sông Cổ Chiên về Mang Thít… bạn sẽ thấy hàng trăm lò gạch gốm có tuổi đời trăm năm nằm san sát cạnh bờ sông. Nơi này, người ta gọi là "vương quốc" gạch gốm miền Tây. Ảnh: BÙI VĂN HẢI

Những con sông ở ĐBSCL không chỉ mang đến phù sa - nguồn dinh dưỡng dồi dào cho ruộng vườn cây trái Nam bộ mà còn tạo ra loại đất sét dẻo dai, nguyên liệu không thể thiếu của nghề gạch gốm.

Mặc dù chỉ còn một số lò duy trì đỏ lửa, số còn lại đã hư hại, phủ đầy rêu phong, khói bụi nhưng chúng tạo nên một nét đẹp nhuốm màu thời gian.

Những lò gạch ở Mang Thít được xây dựng chủ yếu bằng hàng ngàn viên gạch thẻ, tạo thành kiến trúc có chiều cao từ 9 - 13m. Lò có đường kính tầm 6 - 8m, hình trụ tròn và nhỏ dần ở đỉnh. Ảnh: BÙI VĂN HẢI
Những lò gạch ở Mang Thít được xây dựng chủ yếu bằng hàng ngàn viên gạch thẻ, tạo thành kiến trúc có chiều cao từ 9 - 13m. Lò có đường kính tầm 6 - 8m, hình trụ tròn và nhỏ dần ở đỉnh. Ảnh: BÙI VĂN HẢI
Các lò gạch thường dựng san sát nhau dọc theo bờ kênh để thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm dễ dàng. Vào thời kỳ hoàng kim vào những năm 1980, cả "vương quốc" có hơn 1.000 cơ sở sản xuất với khoảng 3.000 miệng lò hoạt động liên tục. Ảnh: BÙI VĂN HẢI
Các lò gạch thường dựng san sát nhau dọc theo bờ kênh để thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm dễ dàng. Vào thời kỳ hoàng kim vào những năm 1980, cả "vương quốc" có hơn 1.000 cơ sở sản xuất với khoảng 3.000 miệng lò hoạt động liên tục. Ảnh: BÙI VĂN HẢI

Theo người dân trong vùng, thời kỳ hưng thịnh, ngày nào lò cũng rực lửa; ghe chở hàng, chở nguyên liệu đến và đi đậu kín cả dòng kênh. Hầu hết sản phẩm tại đây đều được vận chuyển đi khắp nơi, xuất khẩu sang một số nước như Campuchia, Hàn Quốc, Thái Lan. Mang Thít trở thành nơi sản xuất gạch gốm lớn nhất miền Tây.

Các chủ lò địa phương cho hay, để tạo ra được mẻ gạch đạt chất lượng cần qua nhiều công đoạn và mất thời gian hơn 1 tháng.

Đầu tiên là nhào nặn đất sét và tạo hình gạch viên trước khi mang phơi khô. Giai đoạn này hiện tại đã được hỗ trợ bằng máy móc nên nhanh chóng và đỡ vất vả hơn.

Gạch sau khi được phơi khô sẽ mất khoảng 7 - 10 ngày để xếp vào lò. Công đoạn này đòi hỏi những người giàu kinh nghiệm để khi nung gạch, dù chỉ đốt lửa ở bên dưới nhưng gạch vẫn đảm bảo chín đều từ gốc đến ngọn.

Gạch sau khi nung xong sẽ để nguội tự nhiên tầm 10 ngày trước khi dỡ ra ngoài. Một lò gạch như vậy thường dỡ ra mất khoảng từ 5 - 7 ngày với hơn 200.000 viên gạch. Trong ảnh là gạch chuẩn bị được đưa vào lò để nung. Ảnh: BÙI VĂN HẢI

Gạch sau khi nung xong sẽ để nguội tự nhiên tầm 10 ngày trước khi dỡ ra ngoài. Một lò gạch như vậy thường dỡ ra mất khoảng từ 5 - 7 ngày với hơn 200.000 viên gạch. Trong ảnh là gạch chuẩn bị được đưa vào lò để nung. Ảnh: BÙI VĂN HẢI

Bên trong một lò gạch còn hoạt động. Nguyên liệu để nung gạch gồm củi, trấu… và nung đỏ lửa suốt 24/24 trong khoảng 20 ngày mới đạt chất lượng. Ảnh: BÙI VĂN HẢI

Bên trong một lò gạch còn hoạt động. Nguyên liệu để nung gạch gồm củi, trấu… và nung đỏ lửa suốt 24/24 trong khoảng 20 ngày mới đạt chất lượng. Ảnh: BÙI VĂN HẢI

Anh Hiếu, người dân địa phương, cho hay: "Hiện nay, khu vực kênh Thầy Cai là nơi còn nhiều lò gạch nhất của huyện Mang Thít với gần 1.000 lò san sát nhau". Ảnh: BÙI VĂN HẢI

Anh Hiếu, người dân địa phương, cho hay: "Hiện nay, khu vực kênh Thầy Cai là nơi còn nhiều lò gạch nhất của huyện Mang Thít với gần 1.000 lò san sát nhau". Ảnh: BÙI VĂN HẢI

Mặc dù, nghề nung gạch ở Mang Thít dần đi xuống do việc nung bằng nguyên liệu truyền thống (trấu, củi…) không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội, cũng như chi phí nguyên vật liệu tăng cao nên nhiều gia đình phá bỏ dần để làm việc khác. Tuy nhiên, với kiến trúc độc đáo của mình, lò gạch Mang Thít đang trở thành điểm đến thu hút khách phương xa tìm về tham quan, chụp ảnh và tìm hiểu về ngành nghề thủ công truyền thống. Ảnh: BÙI VĂN HẢI

Mặc dù, nghề nung gạch ở Mang Thít dần đi xuống do việc nung bằng nguyên liệu truyền thống (trấu, củi…) không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội, cũng như chi phí nguyên vật liệu tăng cao nên nhiều gia đình phá bỏ dần để làm việc khác. Tuy nhiên, với kiến trúc độc đáo của mình, lò gạch Mang Thít đang trở thành điểm đến thu hút khách phương xa tìm về tham quan, chụp ảnh và tìm hiểu về ngành nghề thủ công truyền thống. Ảnh: BÙI VĂN HẢI

Chính vì lẽ đó, tỉnh Vĩnh Long đã có quyết định ngưng tháo dỡ các lò gạch cũ, bảo vệ nguyên trạng và xây dựng các chương trình văn hóa, nghệ thuật, du lịch dựa trên khối công trình lò gạch và nhà xưởng. Đề án "Di sản đương đại Mang Thít" với tổng vốn đầu tư khoảng 200 tỉ đồng trong giai đoạn 2021 - 2025 sẽ xây dựng nơi đây trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch ĐBSCL. Ảnh: BÙI VĂN HẢI
Chính vì lẽ đó, tỉnh Vĩnh Long đã có quyết định ngưng tháo dỡ các lò gạch cũ, bảo vệ nguyên trạng và xây dựng các chương trình văn hóa, nghệ thuật, du lịch dựa trên khối công trình lò gạch và nhà xưởng. Đề án "Di sản đương đại Mang Thít" với tổng vốn đầu tư khoảng 200 tỉ đồng trong giai đoạn 2021 - 2025 sẽ xây dựng nơi đây trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch ĐBSCL. Ảnh: BÙI VĂN HẢI
Những lò gạch cũ rêu phong phủ kín. Ảnh: BÙI VĂN HẢI
Những lò gạch cũ rêu phong phủ kín. Ảnh: BÙI VĂN HẢI

Từ cầu Mỹ Thuận đến phà Đình Khao, các bạn chỉ cần thạy một đoạn đường thẳng tắp khoảng 10 km là có thể đến vùng ven sông Cổ Chiên, nơi tập trung nhiều lò gạch. Sau đó, các bạn đi tiếp vào đường tỉnh 902 hơn 10 km nữa sẽ gặp cầu Thầy Cai bắc ngang sông Thầy Cai, nhìn dọc theo hai bờ là "vương quốc gạch gốm" nằm san sát, tha hồ trải nghiệm, tham quan và chụp ảnh check-in.

Có thể bạn quan tâm

Tôi là du kích Ba Tơ...

Tôi là du kích Ba Tơ...

“Cả đời cống hiến cho cách mạng, trải qua nhiều chức vụ, nhưng điều tôi tự hào nhất là mình từng là đội viên Đội Du kích Ba Tơ”. Đó là tâm sự của Đại tá Thân Hoạt, năm nay 98 tuổi đời, 80 tuổi Đảng, người con của quê hương Quảng Ngãi.

Người của bách khoa

Người của bách khoa

Thật ra sáu mươi không chỉ là mốc quy ước để có tuổi hưu trí mà còn là tuổi của “nhi nhĩ thuận” (tai đã nghe đủ chuyện đời nên giờ là lúc biết lẽ thuận, nghịch), GS Trần Văn Nam là người nhi nhĩ thuận đã mấy năm rồi.

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

(GLO)- Hơn 30 năm cầm cương, ông Phan Xuân Định (SN 1966, thôn Đồng Bằng, xã Biển Hồ, TP. Pleiku) vẫn luôn nhớ về những ngày tháng rong ruổi cùng tiếng vó ngựa trên cao nguyên. Lão xà ích ấy vẫn âm thầm nuôi dưỡng đàn ngựa để thỏa chí tang bồng và giữ cho phố núi Pleiku nét riêng độc đáo.

Như núi, như rừng

Như núi, như rừng

Trong dòng chảy lịch sử của Kon Tum, qua biết bao thăng trầm, mỗi vùng đất nơi đây đều gắn với những chiến công oai hùng, với những con người mà cuộc đời của họ đã trở thành huyền thoại. Một trong số đó là ông Sô Lây Tăng- người vừa đi vào cõi vĩnh hằng.

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Đối với người Mông xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, lễ cúng rừng (Tết rừng) có từ khi tổ tiên ngàn đời di cư đến đây lập làng, lập bản và trở thành sắc thái văn hóa, tín ngưỡng dân gian độc đáo riêng của người Mông nơi đây.

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Chục cây số đường rừng, từ cao độ 1.500 m lên 2.500 m nhưng mất hơn 5 giờ chúng tôi mới đến nơi đang lưu giữ món quà tiên của bản Hô Tra (H.Tân Uyên, Lai Châu), chính là vạt rừng trà cổ thụ búp tím đang mùa vụ.