Hồng chuông do dòng họ Man Nương cúng Phật

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Chuông chùa Phổ Quang, hiện ở Bảo tàng Văn hóa Phật giáo, khắc tên những người họ Man cung tiến, gắn với truyền thuyết lịch sử thờ Phật Mẫu Man Nương.

Hồng chuông thời Cảnh Hưng

Hồng chuông chùa Phổ Quang hiện lưu giữ tại Bảo tàng Văn hóa Phật giáo (Đà Nẵng) vừa được nghiên cứu bởi một nhóm nhà khoa học, gồm các ông: Lê Cảnh Lam, Nguyễn Quang Miên, Lê Hải Đăng (Viện Khảo cổ học); Huỳnh Đình Quốc Thiện, Trương Thế Liên (Bảo tàng Đà Nẵng); Thượng tọa Thích Huệ Vinh (Bảo tàng Văn hóa Phật giáo) và Trần Kỳ Phương (Hội Khảo cổ học VN).


 

Rồng 4 móng trên chuông chùa Phổ Quang. Ảnh: Lê Cảnh Lam
Rồng 4 móng trên chuông chùa Phổ Quang. Ảnh: Lê Cảnh Lam


“Chuông khắc niên đại Cảnh Hưng tam thập tam niên chế (1773), quai treo hình rồng 4 móng, vòng mặt trời, hồ lô. Nội dung ghi công đức của những người đóng góp công sức và tiền đúc chuông, trong đó có 5 người phụ nữ họ Man. Đây là dòng họ ít người nhưng gắn với truyền thuyết về huyền thoại Phật Mẫu Man Nương chùa Tổ ở chùa Phúc Nghiêm, H.Thuận Thành, Bắc Ninh”, báo cáo nghiên cứu cho biết.
 

Toàn cảnh chuông chùa Phổ Quang
Toàn cảnh chuông chùa Phổ Quang.


Theo các nhà nghiên cứu, có sự khác biệt rất lớn giữa đồ đồng gia dụng và chuông, khánh. Hồng chung, hồng khánh có hàm lượng đồng rất cao (lên tới 80 - 90%) và thêm một lượng nhỏ thiếc. Hợp kim này không chỉ tạo ra chuông, khánh có màu đỏ mà còn có độ ngân, vang khi đánh. “Hợp kim không được pha chì vì pha chì sẽ làm cho chuông, khánh bị “câm”, đánh sẽ không kêu to và không ngân vang”, ông Lê Cảnh Lam cho biết.

 

 Đại tự trên chuông chùa Phổ Quang
Đại tự trên chuông chùa Phổ Quang



Phân tích quang phổ tại Viện Khảo cổ học cho thấy chất liệu làm chuông là hợp kim đúc chủ yếu gồm 4 thành phần: đồng 77%, thiếc 4%, chì và kẽm có hàm lượng rất nhỏ - đều dưới 1%; ngoài ra còn một số chất khác. Do cấu trúc chất liệu, chiếc chuông này có màu đỏ xám trên bề mặt. Chuông được treo trong gác chuông, không bị chôn lấp và không bị mưa nắng nên không tạo gỉ xanh mạnh.

Chuông gồm quai chuông và thân chuông. Quai chuông được đúc trước sau đó gắn ngập vào khuôn đúc thân chuông. Thợ đúc chuông sử dụng các giũa cầm tay để đánh bóng. Kỹ thuật khắc chữ bằng đục chạm.

Tư liệu sử học, Phật giáo địa phương trên chuông

Báo cáo nghiên cứu cũng cho biết về nội dung khắc trên chuông. Các chữ đại tự trên chuông dịch nghĩa là Bài ký trùng tu Phổ Quang thiền tự, thôn Hữu Lân, xã An Việt, huyện Siêu Loại. Chuông chép danh sách những người công đức cũng như số tiền họ công đức vào đây.

Tư liệu chép trên chuông cho thấy tổng số có 247 người công đức, thu được 187,95 quan tiền, tương ứng xấp xỉ 383 kg đồng. Số lượng tiền này hợp lý để đúc quả chuông có kích thước cao 101 cm, đường kính đáy 46 cm và cả tiền xây gác chuông. Có 10 mức tiền công đức, từ 0,1 - 3 quan tiền cổ. Trong đó, các mức được nhiều người ủng hộ nhất là: 81 người công đức 0,3 quan, 49 người công đức 1,25 quan, 42 người công đức 0,67 quan. Có thể chia mức công đức thành 3 hạng. Hạng cao từ 1 - 3 quan tiền gồm 49 người. Hạng trung bình từ 0,6 - 0,7 quan có 42 người. Hạng thấp từ 0,1 - 0,6 quan có 81 người.

Theo nhóm nghiên cứu, xác minh địa danh những người công đức cho thấy ngoài người ở H.Thuận Thành, Bắc Ninh còn có nhiều người ở huyện khác, tỉnh khác góp công đức. Điều này cho thấy chùa cổ nổi tiếng được nhiều người biết đến và đóng góp công đức. “Việc xác minh địa danh cổ cũng là một tiêu chí đánh giá tính chuẩn cổ của chuông bởi lẽ các địa danh ngày nay đã khác thời xưa. Ở hồng chuông này các địa danh hầu như đều chính xác, ngoại trừ một số trường hợp bị mờ không rõ xã, huyện”, nhóm nghiên cứu cho biết.

Ông Lê Cảnh Lam cho rằng những số liệu thống kê không nhằm khen hay chê việc công đức nhiều hay ít bởi hoàn cảnh kinh tế mỗi người mỗi khác. “Tinh thần hướng đến Phật thì dù một vài đồng, giọt dầu cũng rất đáng quý. Chúng tôi thống kê số liệu ở đây để thấy giá trị của chuông như một bản ghi chép cho thấy tình hình kinh tế - xã hội năm 1773 của nhân dân ở H.Thuận Thành, Bắc Ninh và các vùng xung quanh”, ông chia sẻ.

Các nhà nghiên cứu cũng xác minh dòng họ Man công đức tiền đúc chuông. Nhóm cho biết dòng họ Man là dòng họ có ít người so với các dòng họ phổ biến khác như Trần, Lê, Nguyễn… nhưng điểm đặc biệt là dòng họ này hiện vẫn sống tại làng Mãn Xá, xã Hà Mãn, H.Thuận Thành, Bắc Ninh. Dòng họ Man gắn với truyền thuyết Phật Mẫu Man Nương được thờ tại đây. Có 5 người phụ nữ mang họ Man góp tiền công đức được khắc trên chuông, gồm: Man Thị Xúc, Mạn Thị Nghĩa, Man Thị Nhan, Man Thị Triệt, Man Thị Vong.

Nhóm nghiên cứu cho rằng hồng chuông chùa Phổ Quang có giá trị đặc biệt khi ghi khắc tên những người họ Man công đức ở H.Thuận Thành, Bắc Ninh. Điều này góp phần tư liệu minh văn ghi nhận thực sự có mặt một dòng họ Man lâu đời gắn với truyền thuyết lịch sử thờ Phật Mẫu Man Nương.

Cũng theo nhóm nghiên cứu, minh văn trên chuông cho thấy hiện tượng chỉ có cá nhân công đức mà chưa có tổ chức công đức như hội các già đi chùa, hội hương lão. Điều này cho thấy thời điểm 1773, Phật giáo địa phương chưa hình thành hoặc chưa gắn kết các tổ chức xã hội xung quanh. Giá trị tiền đóng góp được ghi chi tiết, cụ thể có thể dùng để so sánh với dữ liệu công đức trên các chuông, bia khác ở địa phương khác hoặc thời kỳ khác.

Theo Trinh Nguyễn (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Già làng Đônh (bìa phải) giới thiệu về chiếc nỏ của người Bahnar. Ảnh: R.H

Điểm tựa Kon Brung

(GLO)- Không chỉ tâm huyết với công tác hòa giải, già làng Đônh (SN 1960; làng Kon Brung, xã Ayun, huyện Mang Yang) còn rất tâm huyết với việc bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Với bà con, ông là điểm tựa của làng Kon Brung.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Mừng lúa mới trên cao nguyên

Mừng lúa mới trên cao nguyên

(GLO)- Sau khi thu hoạch mùa vụ và đưa lúa về kho, đồng bào Jrai náo nức với lễ mừng lúa mới. Nghi lễ nông nghiệp cổ truyền độc đáo này đã được bà con duy trì từ bao đời nay.

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

(GLO)- Quà lưu niệm từ sản phẩm văn hóa vừa là “sứ giả” du lịch, vừa góp phần đem lại thu nhập cho người dân. Việc tổ chức các cuộc thi tay nghề đan lát, dệt thổ cẩm nhằm tìm kiếm sản phẩm đặc sắc làm quà tặng đã góp phần nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy du lịch nông thôn phát triển.