Hồi ức chiến tranh kỳ 1: Vượt Trường Sơn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Trong đoàn quân trùng trùng điệp điệp “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” giữa những năm kháng chiến chống Mỹ, có những cán bộ từ miền Bắc đã hăng hái nhận nhiệm vụ lên đường chi viện chiến trường Khu 5 và Gia Lai xây dựng cơ sở cách mạng, lãnh đạo phong trào đấu tranh tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân dịp Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Gia Lai phát động cuộc thi viết về căn cứ kháng chiến Krong, Báo Gia Lai đăng bút ký “Hồi ức chiến tranh” của một người trong cuộc ghi lại ký ức không quên về những năm tháng chiến tranh đầy gian khó, hy sinh nhưng rất đỗi hào hùng ấy. 
Từ sau Chiến dịch Mậu Thân năm 1968, thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mỹ gấp rút củng cố và phát triển quân đội Việt Nam Cộng hòa, mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Chúng tăng cường và đẩy mạnh quy mô, mật độ hành quân càn quét, thực hiện “bình định nông thôn” nhằm khống chế và đẩy lùi lực lượng cách mạng. Lợi dụng lúc ta có khó khăn, địch tập trung lực lượng phản kích quyết liệt trên nhiều hướng làm cho lực lượng vũ trang, chính trị của ta bị tiêu hao, vùng giải phóng bị thu hẹp.
Ngày 10-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập, công bố chương trình hành động nhằm động viên toàn quân, toàn dân miền Nam đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Khu ủy Khu 5 đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu là: “Diệt kẹp, giành dân”. Mọi hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực cũng như bộ đội địa phương đều phải nhằm đạt được mục tiêu này. 
Thời gian này, tôi đang công tác tại Ty Nông nghiệp tỉnh Nam Hà thì nhận được lệnh chuẩn bị vào chiến trường. Các đoàn đi B thường được tập trung bồi dưỡng sức khỏe và luyện tập mang vác nặng tại Trường 105 (tỉnh Hòa Bình) suốt 3 tháng trước khi lên đường. Do tình hình khẩn trương, đoàn của chúng tôi gồm 10 người từ các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và một số địa phương tập trung về chỉ được bồi dưỡng 1 tuần tại Sơn Tây là lên đường ngay. Trên mảnh giấy chứng minh nhỏ bằng 3 ngón tay, ghi địa chỉ nơi tới là B46-Bác Ân (mật danh của Khu ủy Khu 5).
Từ Hà Nội vào tỉnh Quảng Bình, rẽ lên phía Tây là Binh trạm Ho. Từ đây, bắt đầu một quãng đường đi bộ ròng rã 3 tháng vượt dãy Trường Sơn. Biết rằng trước mắt là một chặng đường hết sức khó khăn, nguy hiểm, nhưng ai cũng tâm niệm câu thơ của nhà thơ Tố Hữu khi tiễn Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào chiến trường miền Nam: “Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ/Hơn ngàn trang giấy luận văn chương…”.
Bộ đội hành quân trên đường Trường Sơn thời chống Mỹ (ảnh tư liệu).
Bộ đội hành quân trên đường Trường Sơn thời chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Hành trang chúng tôi mang theo đủ gọn để có sức đi đoạn đường dài. Đường Trường Sơn đã mở nhiều nhánh: đường ô tô tuy nhanh nhưng thường bị ném bom; đường mòn đi bộ khó khăn nhưng rất an toàn, dùng để chuyển quân và một số đoạn kết hợp vận chuyển hàng bằng xe đạp thồ. Bộ đội hành quân theo đơn vị, còn chúng tôi là dân chính đi lẻ do giao liên dẫn đường, mỗi ngày đi 1 trạm. Mỗi lần đến kho lương thực nhận gạo 7 ngày. Khi đến trạm giao liên thì căng tăng, mắc võng, tìm củi nấu cơm, chuẩn bị cho ngày hành quân tiếp theo. Những ngày đầu còn khỏe nên đi khá nhanh. Trên đường giao liên thỉnh thoảng gặp một đoàn thương binh ra Bắc an dưỡng, anh em lại tranh thủ viết thư báo tin về gia đình. Giữa Trường Sơn, tình cảm con người tự nhiên gắn bó. Tuy chưa quen biết nhưng những người đưa thư hết sức trân trọng, hứa sẽ tìm đến tận nhà để chuyển thư.
Lúc này, Trường Sơn đã bắt đầu chuyển qua mùa mưa với những cơn mưa dữ dội. Đường đi có những dốc cao dựng đứng, chúng tôi phải bám rễ cây leo lên. Có đoạn phải đi trên cầu treo mắc bằng cây rừng dài vài trăm mét cheo leo trên sườn núi. Những lúc vượt sông, mấy anh em phải cho quần áo vào bao ni lông buộc thành phao bơi rồi bám dây lội qua. Có lần, đang qua sông thì đoàn chúng tôi gặp nước lũ đổ về, một nửa đã qua, một nửa còn lại đành ngủ bên bờ sông đốt lửa sưởi ấm chờ sáng hôm sau nước rút mới qua được. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại gặp một đơn vị bộ đội vác các nòng pháo dài trên đường. Thật đáng khâm phục cho tầm nhìn, ý chí và quyết tâm của những nhà lãnh đạo quân sự. Lúc đó, tôi tự nhủ, sự gian khổ của mình chưa thấm gì với gian khổ của các đồng chí bộ đội phải khiêng pháo vượt Trường Sơn.
Đi đến Nam Lào thì một số người bắt đầu nhiễm sốt rét. Tôi và một đồng chí sốt nặng nên phải vào trạm xá giữa đường điều trị, các anh em khác tiếp tục lên đường. Đêm đầu tiên ngủ trong bệnh xá, gần sáng nghe tiếng bộ đội gọi nhau vào rừng chặt le để quàn xác chôn một đồng chí mới mất trong đêm vì sốt rét. Sáng hôm sau, tôi bàn với người bạn bỏ trạm xá đi tiếp vì ở lại không biết phải nằm bao lâu mà rồi sẽ lạc đơn vị. Ngày hành quân tiếp theo thật là gian khổ. Vì bị sốt không theo kịp, hai chúng tôi bị rớt lại phía sau. Anh bạn nói với tôi để anh đi trước nấu cơm, nếu không cả hai sẽ không về trạm kịp trong ngày. Một mình tôi đi sau cứ nhìn theo cành cây của giao liên làm dấu để lần bước. Đến tối, khi lội qua một con suối tôi bị trượt chân, đèn pin và cây gậy trôi mất. Tôi lóp ngóp bò dậy, tiếp tục đi theo cảm giác chủ quan vì không còn nhìn thấy đường nữa. Đi mãi rồi cũng thấy một ánh lửa phía xa. Tôi bất chấp gai góc, tìm cách băng qua mọi bụi cây để hướng thẳng tới nơi có ánh sáng. May mà đó đúng là trạm giao liên. Về đến nơi, mọi người đã ngủ ngon. Người bạn đã nấu cơm, đốt lửa ngồi sưởi chờ tôi. Hôm sau, tôi đành nằm lại trạm vì bị sốt li bì.
Tuy mệt nhưng tôi và người bạn vẫn tiếp tục đi. Chúng tôi tự nhủ: Quyết tâm không để gục ngã vì bệnh tật! Cuối cùng cũng vượt qua sông Sêka Máng để vào đất tỉnh Quảng Nam. Từ Trạm Lâm, tôi được giao liên dẫn về Khu ủy Khu 5 trong niềm vui gặp lại anh em trong đoàn.
BÙI KẾ NGHIỆP

Có thể bạn quan tâm

Dư vang Plei Me

Dư vang Plei Me

(GLO)- 60 năm đã trôi qua kể từ chiến thắng Plei Me lịch sử (tháng 11-1965), nhưng dư vang của trận đầu thắng Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức của những cựu binh già. 

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

null