Dũng sĩ Kpă Klơng trong ký ức đồng đội

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Tượng đài Kpă Klơng ở TP. Pleiku. Ảnh: T.H
Tượng đài Kpă Klơng ở TP. Pleiku. Ảnh: T.H
Trời mưa, con đường vào làng Quen Rai (xã Ia Me, Chư Prông) trơn trượt và lầy lội. Vậy mà, khi biết ý định của chúng tôi, Bí thư Đảng ủy xã Rơ Mah Chi rất vui và vô cùng hăng hái. Sau một cái khoát tay, anh cùng chúng tôi tới nhà ông Kpuih Blang- người Xã đội trưởng năm nào của Anh hùng Kpă Klơng. Ông Kpuih Blang mấy bữa nay không được khỏe, vợ ông- bà Siu Jek đang lui cui nấu cháo. Khi chúng tôi tới, người chạy ra, đón vào nhà lại là ông Siu Blang- đồng đội năm xưa của ông Kpuih Blang và Anh hùng Kpă Klơng, bởi “Mình quen đón khách cho Kpuih Blang rồi, ngày nào mình cũng qua chơi mà”.

Làm văn nghệ cũng là đánh Mỹ
Những đồng đội năm xưa của Anh hùng Kpă Klơng còn lại chẳng mấy người, ông Kpuih Blang nhẩm tính, vừa tròn cả 5 ngón tay: Gồm ông, Siu Blang, bên Ia Pia có Kpă Hian, Kpă Hiơng, Kpă Iơng nữa, mấy người đó là cậu của Klơng đấy. “Blang quên kể tên mình rồi- bà Siu Jek bất ngờ quay sang tôi thì thầm- Mình trong đội văn nghệ xã cùng Klơng mà. Hồi đó, lần nào tới xem, Blang cũng khuyên đội văn nghệ cố gắng hát cho hay, múa cho giỏi, Blang còn bảo: “Mặt trận nói làm văn nghệ cũng là đánh Mỹ đó”, mấy lần Klơng xin vào du kích, Blang cũng nói như thế, đâu đã đồng ý để Klơng làm du kích đâu”.  Vậy là, đắm mình trong lời kể của mí Jek, trước mắt tôi đang dần dần hiện hữu một Kpă Klơng những năm lên 10, 11 tuổi, đứng đến ngang lưng người lớn với đôi mắt đục mà sắc, vầng trán rộng, sáng, rất lỳ và đôi môi mọng đỏ lạ lùng. “Klơng hát hay, nhớ bài nhanh và dễ dàng, giống như việc hàng ngày mình chỉ cần chạy tới suối Ia Pia là có nước để uống vậy- mí Jek bồi hồi kể- Klơng được cả đội tin yêu, được cả bộ đội thương mến. Nhưng đến năm 13 tuổi, lúc cha Klơng- một trong những người đi đầu của cuộc nổi dậy Pak Jô bị bắt, bị bọn Mỹ dùng thứ cọc sắt 3 cạnh sắc bén bổ trên đầu, trên ngực, trên lưng, tóc ông nổi lềnh bềnh trong nước suối Ia Pia thì Klơng đã rực lên ngọn lửa quyết tâm, ngay trong đêm tới gặp Blang: “Anh Blang, anh phải cho Klơng vào du kích, Klơng muốn đánh giặc”. Nghe Blang bảo”Klơng muốn làm du kích à, chưa được đâu. Klơng còn thấp hơn cây súng cạc-bin mà. Klơng làm văn nghệ xã thôi, làm văn nghệ cũng là đánh Mỹ mà...” thì giọng Klơng trở nên hừng hực: “Không, Klơng muốn lấy máu giặc kia!”.

Mũi tên A-kam và món quà mừng tuổi mới
Nghe vợ kể chuyện mình từ chối Klơng vào du kích không chỉ một lần, ông Kpuih Blang trầm ngâm nhìn mãi ra khoảng sân trước mặt. Trời vẫn ào ạt mưa. “Cái cơn mưa này cũng dai dẳng, cũng dữ dội, cũng nhiều như ý chí của Klơng vậy- ông chầm chậm mở lời- Hai lần xin mà chưa được vào du kích, Klơng đều im lặng ra về và tự tìm lấy cái cách giết giặc của riêng mình. Lần đầu, Klơng đem về 5 cây chông, cả 5 đều đẫm máu. Là Klơng cắm ở gần suối Ia Pia, nơi bọn biệt kích hay đi tuần, “không bị thương thằng nào, chết hết. Klơng theo nó ra đến đường lớn, thấy nó bỏ xác 5 thằng lên xe rồi mới về đây”. Lần thứ hai, Klơng dùng một mũi tên rút trên giàn bếp chạy ra đường Plei Me, thấy thằng lính chỉ bị thương, Klơng bèn chạy ngay về hỏi mí và tìm tới nhà cụ Sơt- người còn giữ và biết tạo ra những mũi tên thuốc độc A-kam. 3 mũi tên, 3 thằng ngụy chết trên đường 14, không chỉ thế, bọn chúng còn bị một phen kinh hồn. Cụ Sơt ra tận đầu làng đón Klơng, dẫn về nhà Ơi (nhà ông Kpuih Blang- N.V) bảo: “Blang, thằng Klơng xứng đáng là du kích Jrai mình rồi đó. Hãy giao cho nó một khẩu súng”. Ơi trao súng và 3 viên đạn cho Klơng: “Du kích Klơng, 3 viên đạn đây, mỗi viên đạn phải lấy đầu 1 thằng giặc”. Nhưng 3 viên đạn ấy, Klơng mới dùng có 2 thôi đã chết 7 thằng giặc còn 1 thằng bị thương; viên thứ 3, Klơng đem về trả lại cho Ơi. Năm sau, khi Klơng 15 tuổi, Ơi  mừng tuổi nó 4 quả mìn. Klơng đem mìn ra đường Plei Me đi Thăng Bình, chỗ ngọn đồi trống ven đường, nơi bọn giặc thường chiếm để yểm hộ cho xe đi. Cả 4 quả mìn chớp nổ. 1 trung đội, 50 tên, chết cả, ngọn đồi sạch quang bóng thù”.
Vợ chồng ông Kpuih Blang. Ảnh: T.H
Vợ chồng ông Kpuih Blang. Ảnh: T.H

Và những cách đánh giặc không thể nào quên
“Klơng đã sáng tạo ra những cách đánh giặc không thể nào quên- ông Siu Blang cười rất tươi khi nhắc lại chuyện cũ- Đầu tiên là cách bắn xâu táo. Khi viên đạn đầu tiên trong đời của Klơng xâu luôn 1 hàng 5 tên, tất cả du kích trong làng đều truyền nhau để học theo lối xạ kích đặc biệt này. Còn với Klơng, không trận nào Klơng chịu đổi 1 viên đạn, 1 đầu thù. Trận ở trên rẫy, Klơng bắn 3 viên đạn, hạ 7 tên; trận đánh bọn tuần đường Plei Me, Klơng bắn 7 phát, 19 tên lìa đời... Sau bắn xâu táo là những trận đánh mìn kỳ lạ- như một loại mìn “có mắt, biết đánh hơi kẻ thù”. Ở cầu Ia Pia, ở suối Ia Kle, ở đường Plei Me đâu đâu cũng gặp xác thù trôi nổi vì “gặp mìn” của Klơng”. Rồi bất ngờ, giọng ông Sui Blang trở nên xúc động lạ thường: “Cái lần cả đội đánh mìn trên đường Plei Me, diệt gần hết 1 trung đội dân vệ năm 1965 là tôi nhớ nhất. Khi bọn giặc ồ ạt tiếp viện, Tiểu đội trưởng Thia ra lệnh lui quân, đến trưa cả đội mới về đến làng, kiểm tra hàng ngũ thì thấy thiếu Klơng. Cụ Sơt vào nhà, rút mấy mũi A-kam, quát lớn: “Đi tìm thằng Klơng, đi ngay, đi với tau”. Chúng tôi ra con suối đầu làng thì gặp Klơng đang rửa vết thương. Cụ Sơt ôm Klơng vào lòng, còn Klơng thì vẫn cười: “Klơng ở lại đánh cho các anh rút. Bọn giặc đông quá, bắn không được, Klơng nằm im. Thấy chúng tới gần hơn, Klơng mở lựu đạn, để xì 3 giây, tống một quả. Chúng mất đầu 3 thằng, sợ quá, bọn kia chạy hết...”. “Tại sao Klơng không nghe lời”-anh Thia hỏi. Klơng vẫn cười: “Klơng có nghe chứ. Nhưng rút cả rồi ai chặn giặc cho các anh lui. Lúc đó em bị thương rồi. Em ở lại, em chết cũng được vì em còn nhỏ, làm được ít việc. Các anh phải sống, các anh là cán bộ, làm được nhiều việc cho dân mình”.

...Quanh chỗ chúng tôi ngồi, giờ đây đang chảy mãi những nỗi xúc động đến vô cùng. Mí Jek thì cứ cặm cụi thổi  cho ngọn lửa trong bếp tràn ra. Ông Sui Blang thì lặng lẽ nắn nắn đôi vai cho người Xã đội trưởng năm nào. Còn ông Kpuih Blang thì vẫn không nguôi nhìn ra ngoài trời. Ngoài đó, mưa vẫn dai dẳng rớt, diết da như những giọt nước mặn mòi, ép từ bời bời ký ức đang ngân lên trong đôi mắt đỏ hoe của ông. Ông vẫn đang nhớ về một con người Jrai tuổi thiếu niên, chí anh hùng.
Thu Huế

Có thể bạn quan tâm

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

(GLO)- Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Ia Dơk (tỉnh Gia Lai) là căn cứ cách mạng quan trọng, đồng thời cũng là nơi hứng chịu nhiều đau thương, mất mát. Những cánh đồng từng bị bom cày xới, những mái nhà bình yên hóa tro tàn, bao số phận người dân vô tội bị giặc sát hại.

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

(GLO)- Gần 40 năm gắn bó với rừng, ông Nguyễn Văn Chín-Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra (xã Hra, tỉnh Gia Lai) được biết đến như vị “thủ lĩnh giữ rừng” đặc biệt: từ việc biến lâm tặc thành người giữ rừng đến phủ xanh vùng đất cằn cỗi nơi “cổng trời” Mang Yang.

null