Đoản khúc làng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Tôi khá "choáng váng" trước yêu cầu này. Bởi từ ngày mở rộng, về làng rất dễ để gặp những ngôi nhà tầng sơn màu xanh đỏ, rất dễ thấy những con đường bê tông trải nhựa thay những con đường lát gạch lục nghiêng…



1.

Biết tôi hay đi đây đó ra ngoại thành, một hôm, một người bạn nước ngoài bảo tôi đưa về những làng mạc "quanh quanh Hà Nội".

Không khó đưa anh bạn đi - về trong ngày qua một vệt các làng quê xứ Bắc. Nhưng cái khó lại là khi đã lên xe rồi, anh bạn mới "thòng" thêm một yêu cầu, "nhưng làng nào phải có… nhiều ao làng đẹp".

Tôi khá "choáng váng" trước yêu cầu này. Bởi từ ngày mở rộng, về làng rất dễ để gặp những ngôi nhà tầng sơn màu xanh đỏ, rất dễ thấy những con đường bêtông trải nhựa thay những con đường lát gạch lục nghiêng… Và dễ lắm để thấy những chiếc xe ôtô chạy dọc làng, đậu trong sân của những gia đình khá giả…

Chỉ có điều ao làng…

Xưa, làng nào cũng có vài cái ao. Ao đình. Ao chùa. Ao xóm trên. Ao xóm dưới… Ao, như cái giếng của trời, như cái điều hòa phả khí mát cho làng trên xóm dưới. Ao là nơi Tết đến nhà nhà rộn ràng rửa lá gói bánh chưng, í ới gọi nhau ngả lợn ngả trâu, chia mô chia phần. Ao là nơi xuân sang cả làng nô nức xem các tích trò múa rối nước. Và ao làng, là nơi tuổi thơ mỗi buổi chiều hè nhảy tùm xuống tắm mát. Rồi góc ao này có chiếc cầu ao mòn vẹt là chỗ cả làng giặt giũ chiếu chăn, gánh nước rửa sân rửa ngõ; phía đằng kia là chỗ những bè rau muống, rau rút đang mơn mởn xanh chờ người chèo thuyền ra hái…

Nhưng trước tốc độ đô thị hóa, ao làng hình như là chỗ người ta nhắm đến đầu tiên, để cơi nới, bịt lấp, giãn dân… Những cái ao làng vốn thường không rộng, nay càng dễ dàng… biến mất. Người ta nghĩ lấp ao để làm nhà sẽ tốt… cho dân. Nhưng họ không nghĩ tới điều, làng không có ao sẽ giống con người không có mắt. Làng không còn ao chẳng khác nào phố xá thị thành. Và khi đó, cả làng sẽ biến mất chiếc điều hòa khổng lồ phả hơi mát tưới tắm cho tâm hồn vào ngày đông cũng như ngày hạ.


 

Giếng làng. LÊ BÍCH
Giếng làng. LÊ BÍCH



Về làng bây giờ, hiếm lắm mới gặp được một không gian phóng khoáng. Hiếm lắm mới có một bên là nhà, bên kia là bờ ao nơi có cây dừa cao vút, rặng tre xào xạc tỏa bóng chiều hôm. Càng khó hơn nữa để chứng kiến ở đâu đó người ta dành đất, hiến đất đào ao tạo không gian sống cho con cháu mai hậu. Nhưng thật quá dễ để gặp hai bên đường hai dãy nhà san sát, tầng thấp tầng cao, mái bằng mái chóp. Không gian làng quê đã bị thu hẹp, ngột ngạt cũng xuất hiện nhiều hơn. Vì thế, lời đề nghị của anh bạn yêu làng Việt qua những câu chuyện kể từ giữa thế kỷ 20 vào những ngày tháng này, bỗng trở nên quá khó…

2.

Một ngày đầu hạ. Trên con đường bụi đỏ, sau khi chạy xe một quãng khá xa, ta bỗng muốn dừng lại. Bỗng nhận ra cái quán lá ven đường. Quán sơ sài, chỉ chiếc bàn và cái chõng tre. Nhưng giữa thời kỳ của đồ hộp, của nước đóng chai, quán sơ sài tới mấy cũng nổi bật những gam màu, những logo thương hiệu. Duy có mấy món bánh quê kiểng, gói bằng mấy thứ lá dân dã gần gũi với ruộng vườn thì thường khuất lấp dưới những mẹt, những đĩa nằm ở góc xa xa. Nhưng ai đã thấy thì sẽ muốn ăn ngay. Ăn như một - cách - nhớ - chậm về tuổi thơ lam lũ đã xa.

Đó là một ngày tôi về thăm quê bạn ở Thọ Xuân (Thanh Hóa). Ngôi làng nằm êm đềm bên hạ lưu sông Chu.

Quán ven đường, nhìn ra dòng nước mơ màng. Chỉ thiếu một bóng cây đa, cây gạo nữa thì dệt nên một bức tranh thôn quê Việt như trong cổ tích. Bà chủ quán vẫn nhai trầu móm mém, lật bật rót cho khách chén trà xanh và bày lên đĩa mấy chiếc bánh gai vẫn còn âm ấm. Bà bảo trà xanh mới hãm, khách đường xa uống đi, ngon lắm. Uống trà và thưởng thức món bánh gai đặc sản. Quý hơn, bánh này do chính tay bà làm. Bởi bà là con gái làng Tứ Trụ - nằm trong vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sản sinh ra người anh hùng Lê Lợi, Lê Lai.

Bà còn bảo ngày xưa bánh gai vùng này dùng làm lễ vật tiến vua, nay làm để thiết đãi khách sau mỗi lần giỗ tết, đình đám. Nghe bà nói vậy, bỗng thấy cái bánh gai gói lá chuối khô có màu sắc chẳng lấy gì làm bắt mắt kia bỗng trở nên trân quý, thơm thảo biết nhường nào...

Lại bỗng nhớ tới một lần về xứ Đoài ghé chùa Tây Phương. Dưới chân chùa cũng có một quán nhỏ, xung quanh che bằng mấy tấm liếp, sơ sài. Những đứa trẻ con ống quần bên thấp bên cao đang chơi trò trốn tìm phía sau những manh, những liếp che tạm. Nhưng nhớ nhất lại khi ngồi trong quán cũng là một món bánh lá, mà bà chủ bảo đó là "đặc sản bánh tẻ Cầu Liêu".


 

 


Thứ quà quê, được gói bằng 3 - 4 lớp lá, dù đã luộc chín vẫn còn giữ được màu xanh. Bà chủ quán giải thích, xanh bởi được người thợ bánh ở đây dùng bằng loại lá tươi, vừa hái trên cây tre mai về. Còn tre mai? Đó là một giống tre chỉ có ở đồi Gượm, xã Cần Kiệm (Thạch Thất, Hà Nội) ở gần đó. Tre mai cho lá to gần 4 - 5 lần lá tre bình thường. Vì thế lá tre được dùng để gói bánh tẻ, làm nên hương vị đặc biệt của món bánh nơi đây. Đó cũng là điểm khác biệt với bánh tẻ Đường Lâm thường được gói bằng lá dong, lá chuối.

Vẫn với nguyên liệu bột gạo, mộc nhĩ, thịt băm, hành lá nhưng bánh tẻ Cầu Liêu được chế biến khéo với những bí quyết riêng để người ăn đã thưởng thức một lần là nhớ mãi. Để ăn bánh, nhất thiết phải chấm với nước mắm ngon, vắt thêm chút chanh, pha thêm hạt tiêu…

Mới chỉ hai cung đường, đã thấy gần gũi lắm hương vị quê nhà. Đi đâu, bạn ơi, đừng quên ghé quán ven đường ăn bánh lá.

3.

Tuần trước, tôi về thăm ông bác ở chân núi Ba Vì. Về, và giật mình khi thấy giữa sân, dưới vòm cây xanh mát xuất hiện bộ bàn uống nước với 6 chiếc cối đá xanh làm ghế ngồi.

Những chiếc cối đá xanh kiểu này ngày xưa đã từng thân thuộc lắm với nhiều người, trong đó có tôi. Ngày ấy dường như nhà nào cũng có ít thì 1 chiếc, nhiều có khi dăm ba cái. Cái thì được chôn xuống đất để giã gạo, cái thì được dùng đập lúa mỗi mùa gặt về… Sau này, nhiều nhà dùng cái cối đá xanh này đựng nước gạo cho lợn ăn. Sau nữa, khi thùng xô nhôm nhựa phát triển, kinh tế dư dả không phải chắt bóp, đắp đổi thì những chiếc cối đá xanh này… ra xó cổng "ngồi chơi quanh năm". Cũng có khi nó trở nên có tác dụng, đó là khi gia chủ lăn về góc sân chèn cột ăng-ten tivi cho gió khỏi xoay vần làm nhiễu sóng. Rồi chiếc cối đá nào bục đáy thì được tận dụng làm chậu trồng mấy cây quất, cây chanh…

Nhưng rồi cái sự nặng của cối đá xanh khiến cho ai nấy đều ngại. Thành thử nhà nào nhà ấy cứ bằng cách này hay cách khác loại khỏi sân vườn. Cối đá xanh thân thuộc là thế cứ từ từ biến mất khỏi đời sống của cư dân Việt.

Thế nên, hôm nay, dưới tán cây xanh một ngày nắng tháng 6, ngồi uống chén nước trà xanh dưới bộ bàn xếp bằng cối đá xanh này, chợt nhiên tôi thấy ký ức cứ ùa về, chật ních.

Hỏi ra, ông bác bảo mới nhờ người mua hộ, cũng là vì nhớ quê, nhớ tuổi thơ một thời nơi mà những chiếc cối đá xanh đã giúp cho biết bao đứa trẻ có những ngày chơi đùa mòn nhẵn.

Mà đá xanh đâu chỉ có những chiếc cối này. Còn có cả những chiếc cối xay đậu tương nữa. Rồi nhiều ngôi làng, nơi đầu làng cuối ấp còn có những phiến đá xanh to rộng. Thường là được đặt dưới một gốc cây cổ thụ. Làng tôi phiến đá xanh chiều ngang quãng 1,5m, chiều dài gần 3m, dày tới gần 40cm. Nghe nói, xưa các cụ đã phải lợi dụng con nước mới mang được phiến đá này về, rồi phải nhiều sức thanh niên trai tráng mới đưa được lên kê kích chắc chắn dưới gốc gạo già cho bọn trẻ con chơi đùa chạy nhảy tới nhẵn thín.

Lại thêm những "ông chó đá" quanh năm suốt tháng ngồi canh nơi đầu làng. Ai đi xa cũng đều nhớ về những con chó đá này. Người làng gọi là Thần Cẩu. Ông Thần Cẩu nơi đầu làng như một biểu tượng, thường được làm bằng đá xanh, to nhỏ là tuỳ theo ý nguyện của từng cộng đồng dân cư của làng. Vào những ngày rằm, mùng một hay ngày Tết người trong làng thường thắp hương cầu mong những điều tốt đẹp, thuận lợi, an lành cho làng mình.

Cũng như những chiếc cối đá, ông chó đá nơi đầu làng, hay những phiến đá xanh mát lịm mỗi chiều hè nơi đầu làng Việt đang dần mất đi, rời khỏi mỗi ngôi làng. Nó chỉ còn lại trong ký ức của một lớp người…

Đừng tưởng đá vô tri. Đá cũng có hồn…



https://danviet.vn/doan-khuc-lang-20210616145748509.htm

 Tản mạn của Hoàng Thu Phố
(Dẫn nguồn Dân Việt)

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.