Chiếc cối của người Jrai

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Không chỉ góp phần làm ra hạt gạo trắng ngần, chiếc cối còn là dụng cụ làm bếp và có vai trò quan trọng trong đời sống của cộng đồng người Tây Nguyên nói chung, người Jrai nói riêng.
Ở buôn làng Tây Nguyên, chúng ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh chiếc cối giã gạo đường kính 40-50 cm, cao ngang thắt lưng người lớn nằm úp ngược hay chỏng chơ nơi gầm nhà sàn. Từ lúc máy xay xát trở nên phổ biến, chiếc cối đã qua thời “vàng son”. Tuy nhiên, thi thoảng nó vẫn được dùng để chế biến các món ăn truyền thống như: canh bột, lá mì, cà đắng, muối é... trong dịp lễ trọng của gia đình với quy mô đông người. Ngày trước, để làm ra hạt gạo, đồng bào Tây Nguyên nói chung, người Jrai nói riêng phơi lúa thật khô giòn, loại bỏ hạt lép, đổ trực tiếp vào cối giã. Lượt giã đầu chỉ nhằm tách vỏ lúa như cách mà người Kinh nhờ vào chiếc cối xay lúa. Sau công đoạn sàng sảy, gạo lứt lại được cho vào cối, tiếp tục giã để loại bỏ phần lớn lớp lụa cám, cho hạt gạo thành phẩm trắng ngần.
 Chiếc cối có vai trò quan trọng trong đời sống của các dân tộc bản địa vùng Tây Nguyên. Ảnh internet
Chiếc cối có vai trò quan trọng trong đời sống của các dân tộc bản địa vùng Tây Nguyên. Ảnh internet
Chế độ mẫu hệ quy định trước khi bắt chồng, cô gái Jrai có thời gian về ở tại nhà chàng trai, gọi là thời gian thử thách. Ngoài lời ăn tiếng nói, cách ứng xử thì công việc là thử thách quan trọng hơn cả. Không ít cô gái bị “mất điểm” bởi chiếc cối, ví dụ như không kiểm tra kỹ lòng cối để phát hiện quả trứng được bỏ vào có chủ đích trước khi đổ lúa vào giã chẳng hạn...
Mí Nhép (buôn Bluk, xã Phú Cần, huyện Krông Pa) năm nay tuổi ngoài 60. Mí kể: Với người Jrai, giã gạo là công việc chỉ dành cho phụ nữ. Tận dụng thời gian rảnh rỗi vào sáng sớm, chiều muộn, họ đem lúa ra giã. Việc giã gạo mất khá nhiều thời gian, công sức nên chị em thường rủ nhau cùng giã chày đôi, chày ba luân phiên từng nhà cho vui. Những gia đình chuẩn bị có lễ trọng như pơ thi, cưới xin, ma chay… cần nhiều gạo để nấu cơm thì mượn thêm cối các nhà trong làng, tụ tập chị em cùng nhau giã. Nhịp chày trong sương, tiếng giần sàng, sảy lúa hòa cùng tiếng cười nói chuyện trò tình cảm cộng đồng thêm bền chặt, vơi đi nỗi mệt nhọc, mang lại hiệu quả công việc.
Quanh câu chuyện “chế tác” ra chiếc cối giã, ma Nhép (chồng mí Nhép) cho biết: Đàn ông con trai người Jrai chừng như ai cũng biết đẽo cối. Cối giã thường được làm từ cây lộc vừng, lấy đoạn gần gốc cây bởi thớ gỗ dai giúp cối không bị nứt toác qua thời gian, ít hao mòn khi thường xuyên bị ma sát. Lúc thân cây còn tươi, người ta dùng rìu đẽo vạt thô bên ngoài tạo hình chiếc cối. Đợi đến lúc đoạn cây gỗ khô hẳn mới khoét tròn miệng cối, sau đó cho than cháy đỏ vào. Cứ theo vệt cháy mà tiếp tục nạo khoét sâu đến khi hoàn chỉnh lòng cối. Các công đoạn đều làm thủ công nên mất khá nhiều thời gian. Tùy vào chức năng sử dụng mà làm ra chiếc cối có kích cỡ tương ứng. Như cối dùng để chế biến thức ăn thì nhỏ hơn, gian bếp nhà nào cũng có.
Tôi có anh bạn giáo viên người Jrai, định cư ở Pleiku đã lâu. Tiện nghi trong nhà khá đầy đủ, hiện đại. Tuy thế, vợ chồng anh vẫn mang theo từ làng bộ đôi chày cối truyền thống, quý như của vật gia bảo. “Cối gỗ tiện công nghiệp, cối đá được bán đầy ra đấy nhưng dùng để chế biến thức ăn truyền thống của người Jrai xem chừng không hợp cho lắm, sản phẩm giảm hẳn hương vị. Không chỉ riêng tôi, nhiều gia đình người Jrai sống ở phố thị đều có bộ chày cối như vậy. Nó đã thuộc về kỷ niệm, gợi ký ức làng mỗi khi dùng đến, mỗi lúc ngắm nhìn”-bạn tôi tâm sự.
 ĐÌNH PHÊ

Có thể bạn quan tâm

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Già làng Đônh (bìa phải) giới thiệu về chiếc nỏ của người Bahnar. Ảnh: R.H

Điểm tựa Kon Brung

(GLO)- Không chỉ tâm huyết với công tác hòa giải, già làng Đônh (SN 1960; làng Kon Brung, xã Ayun, huyện Mang Yang) còn rất tâm huyết với việc bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Với bà con, ông là điểm tựa của làng Kon Brung.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(GLO)- Tại Kỳ họp thứ 19 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Thủ đô Asunción (Cộng hòa Paraguay) vào ngày 4-12, UNESCO đã chính thức ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

(GLO)- Quà lưu niệm từ sản phẩm văn hóa vừa là “sứ giả” du lịch, vừa góp phần đem lại thu nhập cho người dân. Việc tổ chức các cuộc thi tay nghề đan lát, dệt thổ cẩm nhằm tìm kiếm sản phẩm đặc sắc làm quà tặng đã góp phần nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy du lịch nông thôn phát triển.