Ăn theo mùa nước nổi: Xóm… lưỡi câu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Tọa lạc trong một con hẻm nhỏ tại khóm 8, P.Mỹ Hòa, TP.Long Xuyên (An Giang), xóm lưỡi câu quy tụ hơn 20 gia đình tham gia sản xuất lưỡi câu theo từng công đoạn.
Công đoạn cắt ngạnh lưỡi câu ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Công đoạn cắt ngạnh lưỡi câu ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Ngoài lưỡi câu đồng, câu sông được tiêu thụ ở vùng ĐBSCL, mấy năm gần đây còn có thêm lưỡi câu biển bán ra các tỉnh miền Trung.
Một lưỡi câu 10 công đoạn
Ông Trần Văn Be, chủ cơ sở sản xuất lưỡi câu Minh Hải, cho biết xóm lưỡi câu hình thành cách đây hơn nửa thế kỷ. Hồi xưa chủ yếu sản xuất thủ công nhưng đã làm được vài chục loại. Nổi tiếng là các loại lưỡi câu rùa, câu ó để giăng trên đồng ruộng, hoặc lưỡi câu rê dành cho những người câu cá lóc quanh năm. Nhưng mấy năm gần đây, nhiều cánh đồng đã đắp đê bao làm lúa 2, 3 vụ. Cá đồng giờ không còn nhiều. Năm nào nước lụt lớn thì lưỡi câu cá đồng bán chạy. Như năm nay nước lên sớm, khách hàng đặt mua lưỡi câu đồng nhiều, làm không kịp.
Sản phẩm của xóm lưỡi câu Mỹ Hòa rất đa dạng, từ câu kiều dùng để câu các loại cá biển như cá ngừ, cá bò, cá ngát...; câu rùa, câu rê dùng để câu cá lóc; câu hòa long dùng câu cá trê; câu đúc sử dụng câu cá rô. Ngoài ra còn có lưỡi câu tôm, câu rắn, câu ếch... tổng cộng chừng 40 loại. Riêng lưỡi câu cá biển được làm quanh năm để bán cho khách hàng ở Đà Nẵng, Nha Trang, Bình Thuận...
"Cứ mài một muôn (10.000 lưỡi) từ sáng tới chiều thì được 100.000 đồng. Gặp người có vốn thì họ thuê mình làm mãn năm, người ít vốn thì nghỉ từ tháng giêng đến tháng ba. Nhưng “chạy” nhất là từ tháng sáu âm lịch"

Ông Hồ Văn Xuống, 57 tuổi


Ông Hồ Văn Xuống, 57 tuổi, làm nghề mài lưỡi câu từ lúc 13 tuổi, cho biết để có một chiếc lưỡi câu hoàn chỉnh phải qua 10 công đoạn: “Đầu tiên là đặt mua thép từ Sài Gòn về rồi thuê gia công kéo từ cọng lớn ra cọng nhỏ. Các công đoạn tiếp theo là chặt khúc, cắt ngạnh, mài mũi, uốn lưỡi, chặt hai (một mũi chặt ra 2 lưỡi) rồi dập đít... Câu biển lưỡi bự, câu đồng lưỡi nhỏ, giá khác nhau. Câu bự tiền... bự vì lưỡi bự thì mài hao đá. Cứ mài một muôn (10.000 lưỡi) từ sáng tới chiều thì được 100.000 đồng. Gặp người có vốn thì họ thuê mình làm mãn năm, người ít vốn thì nghỉ từ tháng giêng đến tháng ba. Nhưng “chạy” nhất là từ tháng sáu âm lịch”.
Theo ông Trần Văn Be, đa số các công đoạn hiện nay được làm bằng máy. Như cơ sở của ông đã đầu tư 30 máy chặt và máy kéo dây. Ông Be giải thích: “Công đoạn kéo dây là làm cho sợi thép thẳng ra, do nguyên liệu không có loại đúng theo kích cỡ nên phải chuốt cho đường kính nhỏ lại theo yêu cầu của khách hàng. Xong công đoạn này thì chuyển sang chặt khúc. Nếu làm bằng máy thì có thể vừa làm, vừa uống trà được. Hồi xưa lưỡi câu làm bằng thép, còn hiện nay đa phần sử dụng dây inox, vừa cứng vừa dai, rất được ưa chuộng”.
Lưỡi câu sau khi cắt ngạnh xong được mài mũi rồi uốn theo “vọng nỏ” bằng phương pháp thủ công. Rất nhiều vọng nỏ, tùy theo chủng loại mà cách uốn khác nhau. Lưỡi câu uốn xong thì đã hoàn thành công đoạn căn bản, chuyển qua khâu dập và cắt đít theo nguyên tắc lưỡi câu cá đồng phải cắt, lưỡi câu cá biển thì dập. Cuối cùng, người thợ đem lưỡi câu đi trui cho cứng rồi mới cho vào hộp hoặc bọc ni lông giao cho khách hàng.
Anh Tải là người uốn lưỡi câu “cha truyền con nối”, cho biết: “Cắt ngạnh, uốn lưỡi là khâu quan trọng. Lưỡi câu “nhạy” hay không nằm ở tay nghề cắt ngạnh của người thợ. Nếu làm không khéo, khi cá dính câu rồi dễ bị vuột ra”. Vợ chồng anh Tải có 2 máy mài mũi, cắt ngạnh gia công cho các cơ sở. Anh làm quanh năm nhưng chủ yếu là lưỡi câu đồng bán cho những người làm câu cắm, câu đường, còn gọi là câu giăng. Mỗi ngày vợ chồng làm từ sáng tới chiều thì được một muôn. Năm nay nước về sớm nên lưỡi câu đồng bán chạy. Khách hàng đặt mua liên tục, các cơ sở hối thúc, làm không kịp giao.
Công đoạn mài lưỡi câu
Công đoạn mài lưỡi câu
Tuy vậy, theo anh Tải thì thu nhập còn khá khiêm tốn. Miệt mài bên 2 chiếc máy từ sáng đến chiều tối, vợ chồng anh kiếm được chừng 400.000 đồng.
Khó, nhưng quyết giữ nghề
Theo ông Nguyễn Thanh Liêm, hồi trước cơ sở của ông nhân công đông, không đủ chỗ nên phải ngồi ngoài sân để làm. Còn bây giờ ông đem vật tư tới từng nhà nhờ gia công, sau đó đi gom thành phẩm về giao cho các nơi. Ông tính trung bình một muôn câu giá bán 1 triệu đồng, sau khi trừ chi phí xong còn lời khoảng 300.000 đồng.
“Nếu mình tham gia một vài công đoạn thì kiếm thêm được chừng năm, bảy chục ngàn đồng, gọi là lấy công làm lời. Nhưng tôi chỉ mướn các khâu khác. Riêng phần cắt, dập đít thì tôi tự làm. Vừa làm vừa kiểm tra chất lượng, loại bỏ những lưỡi không đạt yêu cầu. Nhờ vậy lưỡi câu của tôi luôn giữ được khách hàng”, ông Liêm chia sẻ.
Cũng theo ông Liêm, gần 20 năm trước, xóm lưỡi câu Mỹ Hòa có hơn 100 cơ sở, mỗi cơ sở có từ 6 - 8 nhân công. Tính ra không dưới 700 lao động, chưa kể những lao động gián tiếp gia công theo từng công đoạn. Năm 2007, xóm lưỡi câu Mỹ Hòa được công nhận làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống và được nhà nước tạo điều kiện cho bà con vay vốn, mở rộng quy mô sản xuất. Nhưng hiện giờ chỉ còn hơn 10 cơ sở lớn. Làm ăn không khá, nhiều người đã bỏ, chuyển sang nghề khác.
Có những gia đình gắn bó lâu đời với nghề làm lưỡi câu như ông Truyện, ông Thành. Họ nói có ít làm ít, có nhiều làm nhiều, quyết không bỏ nghề. Ông Liêm tâm sự: “Ba tôi là một trong những người tiên phong làm nghề lưỡi câu. Hồi ông làm thủ công, dùng dao cắt ngạnh mỗi ngày được vài trăm lưỡi. Tôi nối nghiệp cha, nhưng các con tôi không đứa nào chịu theo nghề. Hồi đó mỗi năm xóm này sản xuất được 200 - 250 tấn lưỡi câu, bây giờ chỉ còn vài chục tấn. Ruộng đồng bị bao đê hết, không còn cá thì làng nghề lưỡi câu bít đường, phải chuyển sang nghề khác thôi”.
Mùa nước nổi năm nay về sớm hơn năm ngoái, vì vậy số lượng người đặt hàng gấp 3 lần năm rồi. Cơ sở của ông Liêm mỗi ngày giao khoảng 2 muôn lưỡi đi các tỉnh và sang Campuchia. Ngoài ra còn có nhiều cơ sở làm bán thẳng cho các sạp chợ, mỗi ngày ít nhất cũng vài thiên (một thiên bằng 1.000 lưỡi). Các sạp chợ bán lại cho khách hàng từ các tỉnh. Cũng có một số khách gọi điện trực tiếp đặt hàng. Chỉ cần cho số tài khoản chuyển tiền, còn hàng thì đóng thùng gửi qua đường bưu điện.
Mấy năm nay mặt hàng lưỡi câu không ổn định nên ông Liêm sản xuất thêm dây phao, tóm lưỡi sẵn bán cho những người làm câu cần. Mùa này dây phao đắt hàng, làm không đủ bán. Vì vậy, bữa nay giao cho đại lý này thì mai phải giao cho đại lý khác, quay vòng mới kịp theo đơn đặt hàng, mặc dù mỗi ngày cơ sở của ông Liêm làm ra 50.000 phao đã tóm lưỡi sẵn.
“Làm dây phao tóm lưỡi sẵn vừa khỏe, vừa có thu nhập khá hơn sản xuất lưỡi. Vào mùa cao điểm, tôi kiếm được vài triệu đồng tiền lời mỗi ngày. Cứ sau tết, bắt đầu từ tháng hai âm lịch là có người đặt hàng. Lúc này tôi tập trung mấy chục đứa nhỏ trong xóm làm tới khuya. Tiền công thì trả theo từng công đoạn, khoảng 150.000 đồng một muôn”, ông Liêm cho biết. (còn tiếp)
Hoàng Phương-Ngọc Phan (Thanh Niên)

Có thể bạn quan tâm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

null