50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 2: Ký ức hào hùng về trận đánh ở chiến dịch Tây Nguyên

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Trong cuộc đời quân ngũ, Trung tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) Đoàn Sinh Hưởng là một vị tướng khá đặc biệt. Ông xem đời mình như số phận đặt vào tay những trận chiến khốc liệt.

Năm 18 tuổi, ông được tuyên dương là Dũng sĩ diệt Mỹ, đến 26 tuổi ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND…

Từ khát khao trở thành người lính

Đã 50 năm trôi qua, song ký ức về những ngày máu lửa tháng 3/1975 luôn còn mãi trong tâm khảm của mỗi người lính trực tiếp tham gia trận đánh mở màn tại Buôn Ma Thuột. Để rồi, mỗi lần nhớ lại lòng bồi hồi xúc động về một thời trai trẻ được hoà vào dòng chảy của lịch sử, được góp một phần nhỏ bé cùng dân tộc làm nên đại thắng mùa Xuân 1975.

Trung tướng, Anh hùng LLVTND Đoàn Sinh Hưởng kể về chiến dịch Tây Nguyên.
Trung tướng, Anh hùng LLVTND Đoàn Sinh Hưởng kể về chiến dịch Tây Nguyên.

Với Trung tướng, Anh hùng LLVTND Đoàn Sinh Hưởng cũng không ngoại lệ. Mặc dù 50 năm đã qua nhưng trong ký ức của người lính Cụ Hồ năm xưa, đặc biệt ông là người được trực tiếp tham gia Chiến dịch Buôn Ma Thuột, được có mặt ở thời khắc lịch sử ấy là một kỷ niệm khó phai, kỷ niệm đó sẽ còn mãi với thời gian.

Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng sinh ra trong một gia đình nông dân ở xã Bình Ngọc, thị xã Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Ông kể rằng, từ nhỏ mình đã có một khát khao được vào quân ngũ. Bởi vậy, khi mới 17 tuổi, chưa đủ tuổi đi bộ đội, người chỉ nặng vỏn vẹn 41kg, bị huyết áp cao, người thấp bé, ông đã đến buổi xét tuyển nhập ngũ ở xã với tinh thần “kiểu gì cũng phải đi bộ đội bằng được”. “Hôm đó, toàn xã có 29 người được gọi nhập ngũ nhưng theo danh sách bị khuyết một người do không đủ điều kiện sức khỏe. Thấy vậy, tôi liền xin thế tên. Vậy là mọi chỉ số về tiêu chuẩn nhập ngũ đã được cán bộ tuyển quân “lén” chỉnh sửa cho phù hợp để tôi được đi đợt ấy. Ngày 28/9/1966, tôi tạm biệt gia đình, quê hương, gửi lại một thời ấu thơ đầy ắp kỷ niệm háo hức vào chiến trường”, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng nhớ lại.

Những ngày đầu vào quân ngũ là chiến sĩ của Sư đoàn 308 - sư đoàn quân Tiên phong và chiến dịch đầu tiên trong đời lính là chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, trận chiến vẫn được mệnh danh là “Điện Biên Phủ thứ hai”, ác liệt và đau thương. Khe Sanh với ông là “khe tử” nhưng cũng là một niềm vinh dự. “Đây là lần đầu Sư đoàn 308 trực tiếp đánh Mỹ, thắng Mỹ, cũng là lần đầu tiên tôi ra trận cùng đồng đội được trực tiếp chiến đấu đánh quân chủ lực tinh nhuệ Mỹ, đội quân có trang bị vũ khí hiện đại nhất. Và chúng tôi đã thắng”, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng kể.

Đến ký ức trận đánh then chốt Buôn Ma Thuột

Trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng là Tiểu đội trưởng Đại đội súng cối 82 ly (Trung đoàn 88, Sư đoàn 308) đã trực tiếp chiến đấu 14 trận, đánh sập 5 lô cốt, phá hủy 1 đại liên, tiêu diệt 15 lính Mỹ, được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ; Dũng sĩ diệt xe cơ giới. Ông được kết nạp Đảng tại trận địa khi tròn 19 tuổi. Sau chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, ông cùng đồng đội tham gia nhiều trận đánh và nhiều chiến dịch lớn khác. Tuy nhiên, với ông trận đánh vào Buôn Ma Thuột, trận then chốt trong Chiến dịch Tây Nguyên mang mật danh “Chiến dịch 275” là những tháng ngày đẹp đẽ nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông.

Lực lượng quân giải phóng cắm cờ sau khi chiếm được Sở chỉ huy của địch ngày 10/3/1975. Ảnh nhân vật cung cấp
Lực lượng quân giải phóng cắm cờ sau khi chiếm được Sở chỉ huy của địch ngày 10/3/1975. Ảnh nhân vật cung cấp

Rồi ông kể, vào ngày 17/1/1975, Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 273 của đơn vị ông được lệnh hành quân di chuyển đội hình xuống phía nam Tây Nguyên. Đại đội 9 của ông trong đội hình Trung đoàn bí mật vượt qua 300km an toàn đến vị trí tập kết ở Buôn Gia Wầm, cách Buôn Ma Thuột 40km về phía bắc, sẵn sàng tiến công giải phóng mục tiêu then chốt quyết định là Buôn Ma Thuột.

“Lúc ấy, mọi công tác chuẩn bị hết sức công phu, cả về kỹ thuật và chiến thuật. Đại đội 9 được trang bị toàn bộ xe tăng T-54B thế hệ mới, chúng tôi tổ chức cho từng kíp xe tăng luyện tập kỹ và quyết tâm bảo đảm tác chiến nhanh, chính xác. Lực lượng kỹ thuật tổ chức sấy máy bằng than củi, sấy máy bằng thủ công bảo đảm thông tin được thông suốt”, Trung tướng Hưởng nhớ lại.

Tại vị trí tập kết, ông Hưởng sáng kiến gia cố thêm 10 viên đạn pháo cho mỗi xe tăng, nâng tổng số đạn từ 34 lên 54 viên, đồng thời bổ sung 10 viên cho mỗi xe thiết giáp K-63. Điều này giúp tăng khả năng tác chiến kéo dài và bắn không hạn chế vào các mục tiêu nghi ngờ có địch. Ngoài gia cố đạn, ông Hưởng đề nghị cấp thêm lựu đạn cho xe tăng, riêng xe ông được ưu tiên hai thùng và sử dụng hết trong sáng 10/3/1975 để diệt địch. Ngoài ra, với kinh nghiệm chiến đấu, ông đề xuất, xuất phát sớm hơn lệnh 15 phút, từ 1h45 thay vì 2h sáng.

Cuộc tiến công Buôn Ma Thuột bắt đầu, khi pháo binh và đặc công đánh sân bay, kho Mai Hắc Đế, sân bay Hòa Bình, Đại đội 9 do ông chỉ huy gồm 10 xe T-54B, 10 xe K-63 tổ chức thành 4 thê đội. Ông chỉ huy thê đội 2 và chung cả đội hình, giữ bí mật đến phút chót, địch không hay biết.

“Khoảng 5h30 sáng ngày 10/3/1975, khi pháo binh chuyển làn bắn, xe tăng và cơ giới ta mở tốc lực, húc đổ cây tiến thẳng vào Buôn Ma Thuột. Nhận thấy địch hoang mang cực độ, tôi lệnh bật đèn xe. Đại đội 9 làm theo, các đơn vị khác cũng bật đèn, biến núi rừng Tây Nguyên thành biển lửa, khích lệ quân ta, khiến địch khiếp đảm. Theo kế hoạch chiến đấu, thê đội 1 dẫn đầu đột phá vào cửa mở, để thê đội 2 do tôi chỉ huy thọc sâu vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy. Bị dồn vào chân tường, địch chống cự quyết liệt...”, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng kể.

Cũng theo lời Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng, thời khắc đó hầu hết xe tăng của chúng ta đều có người bị thương, xe tăng 980 do đích thân Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng chỉ huy bị trúng đạn. Trong giây phút đó, người lái xe bị gãy tay, ông liền cho xe lùi lại, đưa đồng chí lái xe ra tuyến sau cấp cứu và điều người khác từ xe 703 lên thay. Từ 5h30 đến 10h30 ngày 10/3, quân ta liên tiếp quần nhau với địch. Pháo phòng không 232 và 234 bảo vệ chặt đội hình tiến công. Tối 10/3, Đại đội 9 và bộ binh áp sát Sư đoàn bộ Sư đoàn 23 ngụy. Theo lệnh, đơn vị dừng lại để củng cố, bổ sung đạn. Ông Hưởng cùng đồng đội trinh sát, chuẩn bị đánh sớm hôm sau. “6h sáng 11/3, khi đơn vị sẵn sàng xuất kích, phát hiện xe địch, tôi lệnh nổ súng, bắn cháy 2 xe M-113 và M-41. Lợi dụng địch hoảng loạn, tôi chỉ huy truy đuổi, bắt Tỉnh phó Đắk Lắk. Xe tăng ta tiếp tục đánh chiếm Sở Chỉ huy Sư đoàn 23, sào huyệt cuối cùng của địch ở Buôn Ma Thuột. Đến 10h, các hướng đồng loạt tấn công, 10h30, xe tăng, bộ binh áp sát cột cờ, Đại đội 9 chốt giữ trận địa, hỗ trợ Tiểu đoàn 4 hạ cờ ngụy quyền Sài Gòn, kéo cờ giải phóng trong niềm vui chiến thắng”, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng hào hứng kể lại.

Nói đến đây, ông Hưởng nghẹn ngào: “Trong cuộc đời quân ngũ, tôi đã trải qua nhiều trận đánh, tham gia nhiều chiến dịch. Mỗi trận đánh là một thử thách về lòng dũng cảm, sự ác liệt, hy sinh. Giờ đây, chiến tranh đã lùi xa, đồng đội thế hệ tôi người còn, người mất. Trên chính mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ này, biết bao đồng đội tôi đã không may nằm lại, linh hồn và thân thể các anh đã hòa vào đất đỏ Tây Nguyên. Họ đã ngã xuống để đất nước ta ngày càng tươi đẹp, trường sinh”.

Trung tướng, Tiến sĩ Khoa học quân sự Đoàn Sinh Hưởng (nguyên Lữ đoàn trưởng xe tăng 273, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320, Tư lệnh tăng thiết giáp, Tư lệnh Quân khu 4). Ông sinh năm 1949, tại xã Bình Ngọc, thị xã Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Nhập ngũ năm 1966 khi tròn 17 tuổi. Được phong danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ; Dũng sĩ diệt xe cơ giới và được kết nạp Đảng ngay tại trận địa khi mới 18 tuổi. Ông được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND tháng 9/1975, khi mới 26 tuổi.

Theo Văn Thành (CANDO)

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null