Tiếng chày giã gạo đêm khuya

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Những đêm trăng sáng, gió từ sông Gianh thổi vào mát rượi, mọi người bê cối ra sân giã. Tiếng chày khua cối thậm thịch, thậm thịch, tiếng nói cười rôm rả, những câu hò, câu hát vang lên...

 Mùa lúa chín, gặt về, bố mẹ tôi phơi thật khô, cho vào chum, vào vại dự trữ để ăn dần... Ảnh: Lê Nam
Mùa lúa chín, gặt về, bố mẹ tôi phơi thật khô, cho vào chum, vào vại dự trữ để ăn dần... Ảnh: Lê Nam



Ngày nay khi máy xay xát có mặt ở khắp nơi, người nông dân không còn phải lo lắng việc xay, giã, giần, sàng để có gạo nấu cơm ăn hàng ngày, tôi lại bồi hồi nhớ về một thời đã qua, nhớ những vất vả của mẹ tôi, cũng như bao người mẹ khác ở miền Trung, bên cái cối xay lúa, cái cối giã gạo.

Mùa lúa chín, gặt về, bố mẹ tôi phơi thật khô, cho vào chum, vào vại dự trữ để ăn dần. Có lúa rồi, nhưng để có gạo ăn, phải trải qua một công đoạn không đơn giản tí nào: xay lúa, giã gạo. Việc xay lúa, giã gạo khá vất vả và chiếm khá nhiều thời gian thường do mẹ và các chị tôi đảm nhiệm.

Sáng, trước khi ra đồng, mẹ tôi xúc một vài thúng lúa trong chum, rồi giao việc cho các con: “Bựa ni Cu Nậy đi chự (giữ) trâu, Mẹt Con bồng em, Cu Nhỏ ở nhà xay lúa”. Anh em tôi thường hay cự nự về công việc được giao, mẹ cười và dịu dàng phân giải: “Xay lúa thì khỏi bồng con”. Dù đã được giao việc, nhưng cả ngày mải ham chơi, chiều tối mới nhớ công việc, tôi vội vã đổ lúa vào xay. Thấy thế mẹ nhẹ nhàng trách bằng một câu ca dao mà mãi tôi vẫn nhớ: “Cả ngày thì bỏ đi chơi, tối tắt mặt trời đổ lúa ra xay”. Tôi đút giằng xay vào tai cối, dùng lực đẩy mạnh làm thớt trên của cối quay tròn, vang lên tiếng kêu ù ù, rền rĩ . Những hạt gạo lẫn trấu văng đều ra máng xay. Những chú gà đói ăn, lân la nhặt những hạt gạo, hạt thóc rơi vãi ra quanh cối, mẹ vừa đuổi gà vừa la lớn: “Gà què ăn quẩn cối xay”!

 Lúa xay xong, mẹ dùng mẹt (giống nia, nhưng nhỏ hơn) sảy, tách ra phần trấu và phần gạo. Trấu dùng nhóm bếp hoặc làm phân. Phần gạo được đưa vào cối giã gạo để giã. Chiều đi làm đồng về, cả nhà quây quần ăn cơm tối. Ăn xong, nghỉ ngơi một lúc, mọi người bày cối gạo ra giã. Chị tôi, anh tôi thường phụ giã gạo với mẹ. Những lúc tôi không học bài, cũng tham gia giã gạo. Giã gạo ba, bốn người phải đúng nhịp, đúng lượt để người này không bị trùng vào lượt của người khác. Người giã gạo đến lượt mình nhón chân, rướn người, hai tay cầm chày vươn cao để lấy lực, rồi nhún người giã mạnh chày xuống cối. Tôi ít khi giã, nên hay loạn nhịp, hay giã trật sang một bên, làm gạo văng tung tóe. Thấy vậy, mẹ cho tôi nghỉ. Mẹ nói: “Thôi, con nghỉ đi, để mẹ làm cho nhanh”. Những lúc gạo văng nhiều lên miệng cối, đến lượt mình, mẹ một tay cầm chày giã, tay kia đồng thời lùa gạo vào lòng cối. Công việc vẫn đều đặn, nhịp nhàng, không dừng lại.

Gạo giã xong, các anh chị đi nghỉ, mẹ ngồi lại để sàng, giần, sảy. Hỗn hợp gạo, tấm, cám, được xúc dần cho vào sàng, vào giần, vào mẹt, để tách ra thành gạo, thành tấm (cũng dùng nấu cơm), cám (cho heo ăn), mông mông (cho gà ăn). Cứ dăm ba tối một lần, cả nhà xúm vào giã gạo để đủ ăn cho vài ba ngày. Nếu chuẩn bị tết, hoặc nhà có đám cưới, đám giỗ, lại mượn thêm mấy chị quanh xóm đến cùng giã gạo. Những đêm trăng sáng, gió từ sông Gianh thổi vào mát rượi, mọi người bê cối ra sân giã. Tiếng chày khua cối thậm thịch, thậm thịch, tiếng nói cười rôm rả, những câu hò, câu hát vang lên trong đêm, tạo nên một khung cảnh đầm ấm, yên vui, quên đi cái vất vả, mệt nhọc của nhà nông: “Hò ơ, trèo lên đỉnh núi U Bò/ Nhìn về Cồn Vượn, thấy bảy o kén chồng…”; “Hò ơ… đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng/ Tre non đủ lá đan tràng (sàng) được chăng...”, “Chị dòng xách chiếu, nghiêng chăn/ Đêm đông trường giá lạnh biết than rằng cùng ai…”.

Nhiều đêm, đang ngủ say, chợt thức giấc, tôi lại nghe văng vẳng tiếng chày giã gạo thậm thịch, đều đều. Bên ngọn đèn dầu leo lét, tôi thấy mẹ đang một mình nhẫn nại giã gạo. Thì ra buổi tối, mọi người đi làm về mệt quá lăn ra ngủ, nửa đêm mẹ thức dậy lo xay giã, để ngày mai có gạo nấu cơm cho cả nhà. Dáng mẹ cao, gầy, tóc búi gọn sau đầu. Mỗi lần mẹ rướn người, lấy đà để giã, bóng mẹ in dài trên vách tường. Mồ hôi chảy dài hai bên má. Mẹ giã, mẹ sàng, mẹ giần, mẹ sảy, đôi tay cứ thoăn thoắt, đều đặn như đang múa. Cái sàng, cái giần xoay tròn, xoay tròn. Cái mẹt nảy lên hạ xuống nhịp nhàng, những hạt gạo, hạt tấm như đang nhảy múa trong mẹt. Hết việc này đến việc khác, không lúc nào ngơi. Xong việc, mẹ thu dọn đồ đạc, cất lên sàn nhà. Trên môi mẹ nở nụ cười, tươi tỉnh, mãn nguyện.
 

 

 

Theo HOÀNG TRỌNG (thanhnien)

Có thể bạn quan tâm

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Mở lối vào thế giới sắc màu

Mở lối vào thế giới sắc màu

(GLO)- Từ nét màu nước chấm phá, mực tàu loang trên giấy dó, đến những dòng thư pháp bay bổng hay gam màu rực rỡ của tranh sáp màu, acrylic - tất cả hòa quyện tại những lớp học vẽ. Mùa hè, những lớp học nhỏ ấy lặng lẽ góp phần vun đắp tâm hồn nghệ thuật cho nhiều bạn trẻ.

Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

Cặp đôi nghệ sĩ Nguyễn Cơ-Hồng Mai: Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

(GLO)- Cùng sinh năm rồng (1988) và lớn lên với tình yêu dành cho từng nhịp vũ đạo, Nguyễn Văn Cơ và Trần Thị Hồng Mai-hai nghệ sĩ trưởng thành từ Nhà hát Ca múa nhạc tổng hợp Đam San trở thành cặp đôi hiếm hoi của làng múa ở cao nguyên Pleiku, luôn song hành cả trên sân khấu và trong đời sống.

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

(GLO)- Vở diễn Trò chơi của quỷ do Ðoàn ca kịch bài chòi Bình Ðịnh (thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Gia Lai) dàn dựng vừa giành huy chương đồng tại Liên hoan Nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc về “Hình tượng người chiến sĩ Công an nhân dân” lần thứ V-năm 2025.

"Núi trên đất bằng"

"Núi trên đất bằng"

(GLO)- Tiến sĩ Hà Thanh Vân đã nhận xét Tiểu thuyết "Núi trên đất bằng" của Võ Đình Duy là một tác phẩm văn chương đầu tay ra mắt năm 2025, đánh dấu bước chuyển đầy bất ngờ từ một kiến trúc sư trẻ sống ở Gia Lai sang hành trình kiến tạo thế giới văn chương.

NHÀ THƠ ĐÀO AN DUYÊN: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

Nhà thơ Đào An Duyên: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

(GLO)- Với nhà thơ Đào An Duyên, đọc và viết chính là hành trình nuôi chữ. Trong hành trình ấy, chị chọn một lối đi riêng, chắt chiu xúc cảm, gửi tiếng lòng vào từng con chữ với niềm mong giữ lại những xanh tươi cuộc đời, từ đó góp thêm một giọng thơ giàu hương sắc cho văn chương Gia Lai.

BẢO TỒN CÁC KỊCH BẢN TIÊU BIỂU CỦA HÁT BỘI BÌNH ĐỊNH: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

Bảo tồn các kịch bản tiêu biểu của hát bội Bình Định: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

(GLO)- Hát bội Bình Định là một di sản văn hóa đặc sắc với nhiều vở tuồng kinh điển như: Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Ngũ hổ Bình Tây, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo (còn có tên khác là Chém cáo, Cổ miếu vãn ca) của Nguyễn Diêu, Trầm hương các, Diễn võ đình và Cổ thành… của Đào Tấn.

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Tôi không phải một dịch giả chuyên nghiệp - mào đầu vậy hoàn toàn không phải để biện hộ cho những sơ suất, sai sót và thô lậu mà bất cứ ai khi chạm tay vào việc dịch nói riêng, việc chữ nghĩa nói chung, dẫu là tay thuận hay tay ngang, đều phải đối mặt và chịu trách nhiệm.

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Để chào đón thời khắc đặc biệt của đất nước, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ cao cả với vai trò, vị thế là cơ quan ngôn luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ mà người đứng đầu hệ thống Mặt trận đã tin tưởng giao phó; kể từ tháng 7.2025, Báo Đại đoàn kết ra mắt ấn phẩm Tinh hoa Việt bộ mới.
Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

(GLO)- Nếu như Tây Bắc có “tứ đại danh đèo”: Mã Pí Lèng, Ô Quy Hồ, Pha Đin, Khau Phạ thì vùng duyên hải miền Trung lên đại ngàn Tây Nguyên cũng có “ngũ danh đèo”: An Khê, Phượng Hoàng, Khánh Lê, Ngoạn Mục, Violak.

default

Địa phận Phủ Hoài Nhơn được xác lập năm Hồng Đức thứ 2 (1471), là miền “viễn châu” khá rộng; sau hơn 550 năm, vùng đất rộng lớn lúc ban đầu được phân chia thành nhiều tỉnh thuộc Nam Trung bộ và Bắc Tây Nguyên. 
null