Sống trên đỉnh núi - Kỳ 3: "Cuộc chiến" với nước của người Mông

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Cách giữ nước, lấy nước và sử dụng nước của người Mông cũng không giống ai, đó là sự thích nghi với điều kiện thiếu nước muôn thủa. Từ bao đời nay, nước luôn là vấn đề hóc búa của họ...

Bản Lỳ Chá Tủng, xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn với mấy cụm nhà nằm lốm đốm trên một triền núi đá, cách nhà vua Mèo Vương Chí Sình một dãy núi đá cao dựng đứng.

Dưới chân thung lũng được tạo thành bởi sự “oằn mình” của dãy núi có hai hốc đá, một tự nhiên, một nhân tạo, là chỗ lấy nước chính của 57 hộ trong bản.

 

Vừ Pà Sinh lấy nước ở hốc đá thuộc bản Lỳ Chá Tủng, xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn.
Vừ Pà Sinh lấy nước ở hốc đá thuộc bản Lỳ Chá Tủng, xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn.

Một can nước đi nhiều cây số

Trong một buổi chiều nhá nhem giữa tháng 5, đi trên con đường men theo triền núi đá nhìn xuống, chúng tôi bắt gặp một người đàn ông mang hai chiếc can loại 30 lít, chiếc thì gùi, chiếc thì xách đi lấy nước.

Đó là Vừ Pà Sinh, đang len lỏi qua con đường mòn quanh các hốc đá và đám cỏ voi cao quá đầu người. Hốc nước anh lấy là một tảng đá được “ông trời” khoét cho như hình cái ná rộng 3-4m2 và có lẽ không sâu quá đầu người, nước trong và mát lạnh.

Cạnh đó cũng là một hốc khác rộng vài chục mét vuông, vừa tận dụng phần lõm của tảng đá rồi xây tường ximăng thành hốc, nhưng nước chỉ xấp xỉ dưới đáy có màu xanh đùng đục của tảo.

Anh buộc nước sau “con xe” Win rồi chạy quanh co len lỏi qua mấy ngọn đồi, ngược con đường bêtông lên đỉnh một ngọn núi thấp vào nhà. Trong sân nhà Sinh có hai bể nước nối với mấy máng xối bao quanh mái nhà nhưng nước cũng sắp cạn.

Nước đối với gia đình năm con người của nhà Sinh hằng năm như “một cuộc chiến” vậy: “Bể nước mưa này dùng tiết kiệm cũng được ba tháng. Hốc đá cách nhà gần cây số kéo dài thêm được hai, ba tháng nữa.

Những tháng còn lại phải qua (xã) Thài Phìn Tủng chở về. Cũng may bữa nay có hồ treo Thài Phìn Tủng, nếu không thì phải đi xa và chờ lâu lắm!”.

Mỗi ngày nhà Sinh xài ít nhất hai can 30 lít, phần lớn cho bò và dê uống. Còn nước sinh hoạt rất ít, chủ yếu dùng nấu ăn và uống. Mọi việc tắm, giặt đều phải đến hốc đá trong bản và hồ treo ở xã bên cạnh. Việc tắm giặt cũng hết sức tiết kiệm, chỉ mỗi tuần một lần vì nước không có nhiều.

Tuy nhiên, cái may nhất mà Vừ Pà Sinh không nhắc đến là con lộ từ nhà anh đến các xã xung quanh từ lâu được mở rộng và trải nhựa.

Anh có “con xe” Win nên lúc nào cũng sẵn sàng bon bon chở nước, khác hẳn với trước đây mùa thiếu nước phải mỗi người mỗi can gùi bộ mấy tiếng.

Bà Ly Thị Kía, phó chủ tịch UBND xã Sà Phìn, nói xã Sà Phìn ở trong tình cảnh “ba 100%”, đó là: 100% người Mông, 100% thiếu nước và 100% diện tích núi đá.

Thực ra, còn không ít 100% khác mà bà Kía còn dè dặt, có thể kể như thiếu lương thực hay số lượng thanh niên làm thuê bên kia biên giới... Nhưng “nóng” nhất vẫn là chuyện thiếu nước.

Năm 2002, xã Sà Phìn được huyện đầu tư xây cái hồ treo hứng nước từ núi đá ở phía nam bản Sà Phìn A, nhưng hồ này chỉ vài trăm mét khối và sau vài năm sử dụng thì bị hỏng, không giữ được nước, gần như quanh năm cạn đáy.

Đến năm 2008 một hồ treo nữa, dung tích 3.000m3, được xây ở phía bắc của bản Sà Phìn A. Nhưng chẳng hiểu lỗi kỹ thuật ra làm sao mà hồ này chẳng tích được nước và đang được sửa chữa.

Nạn thiếu nước trở nên nghiêm trọng trong suốt mấy tháng không chỉ đối với người dân mà còn đối với các cơ quan, trường học đóng trên địa bàn xã.

 

Vừ Mí Dà ở bản Mua Phà Sá, xã Tả Phìn, huyện Đồng Văn gùi nước về nhà.
Vừ Mí Dà ở bản Mua Phà Sá, xã Tả Phìn, huyện Đồng Văn gùi nước về nhà.

Chiến lược bảo vệ nước

“Phải mua nước. Bên trường học thì nhờ quen biết mà mua được nước từ Lũng Táo giá 1,2 triệu đồng/xe (6m3). Còn UBND xã thì mua nước từ Yên Minh chở lên mỗi xe 1,5 triệu đồng.

Tại những đơn vị này, nước được quản lý rất chặt, xã phân công nhiệm vụ và giao chìa khóa cho một người theo dõi và quản lý nước...!” - bà Kía nói.

Những ngày đầu tháng 5 chúng tôi đến, trước tình trạng “bể cạn đáy”, UBND huyện Đồng Văn cũng vừa duyệt chi cho UBND xã Sà Phìn và Trường bán trú Sà Phìn 20 triệu đồng để mua nước.

Ông Dinh Chí Thành, phó chủ tịch UBND huyện Đồng Văn, cho biết chiếm hơn 70% diện tích huyện này là đá toàn đá, cây rất khó mọc nên diện tích che phủ rừng chỉ khoảng 35%.

Ngoài Sà Phìn, các “xã đá” khác cũng thiếu nước triền miên gồm: Lũng Thầu, Vần Chải, Hố Quán Phìn, Tà Lủng, Tả Phìn, Tả Lủng...

Vì vậy lãnh đạo huyện đã đề ra một chiến lược bảo vệ nước như giữ rừng tuyệt đối, không những không đốn cây mà củi cũng cấm lấy để giữ độ ẩm, bảo vệ sinh thủy.

Không riêng gì huyện Đồng Văn, đi nhiều nơi ở các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, vấn đề bức xúc và nan giải bậc nhất vẫn là thiếu nước.

 

Thành lập đội bảo vệ nước

Theo ông Dinh Chí Thành, tại các xã của huyện Đồng Văn đều có các đội và các bản đều có các tổ để bảo vệ nước. Mỗi đội, mỗi tổ sẽ có 5-10 người luân phiên theo dõi, điều tiết và bảo vệ nguồn nước sinh hoạt tại các hồ treo cho cư dân trong vùng.

“Có những thời điểm nguồn nước không thể đáp ứng cho tất cả các hộ dân cùng sử dụng nên các đội, các tổ sẽ đứng ra điều hành để người dân khu vực này được lấy nước bao nhiêu tiếng, khu kia được lấy bao nhiêu tiếng. Mục đích cuối cùng là điều tiết để tất các hộ dân đều có thể dùng được nước” - ông Thành nói.

Bởi vậy, công việc quan trọng nhất của mỗi gia đình sống trên núi vẫn là xây bể tích trữ nước mưa và dành quá nhiều thời gian cho việc giữ nước, lấy nước.

Để thích nghi, người dân vùng này có nhiều cách để giữ và lấy nước. Ngoài bể hứng nước mưa tại nhà, phổ biến nhất vẫn là tận dụng và cải tạo hốc đá tự nhiên, nện chặt đáy hốc bằng đất sét để giữ nước mưa; làm hồ treo hứng nước lưng chừng núi hoặc dùng ống cao su dẫn nước về nhà từ những hốc nước rỉ ra trong lòng núi cao...

Hiện nay nhờ xe cộ, đường sá và nhiều dụng cụ khác khiến câu chuyện nước không còn “vô cùng khủng khiếp” đối với người Mông như trước đây. Chỉ cần có “con xe” phi vài cây số là đến ngay một hồ treo ở xã xa hoặc lên một hốc đá nào đó để chở nước về dùng.

Theo tuoitre

Có thể bạn quan tâm

Gặp người phụ nữ 78 năm tuổi Đảng

Gặp người phụ nữ 78 năm tuổi Đảng

(GLO)- Chúng tôi không khỏi xúc động khi mới đây được trò chuyện với bà Nguyễn Thị Thành-nguyên Giám đốc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Gia Lai, người phụ nữ năm nay 95 năm tuổi đời, 78 năm tuổi Đảng với sự mẫn tiệp hiếm thấy.

Cán bộ, chiến sĩ Đội chữa cháy và cứu nạn cứu hộ khu vực Ayun Pa chữa cháy kho mì tại thôn Plei Tăng A, xã Ia Ake, huyện Phú Thiện. Ảnh: Vũ Chi

Lính cứu hỏa trên mặt trận không tiếng súng

(GLO)-Nghề nào cũng có vinh quang riêng, song với cán bộ, chiến sĩ phòng cháy và cứu nạn cứu hộ, bên cạnh niềm tự hào nghề nghiệp còn là sự hy sinh thầm lặng. Trên mặt trận không có tiếng súng, không có tội phạm nhưng muôn vàn nguy hiểm, họ luôn dốc hết sức mình vì bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

Vườn cây của gia đình chị Nguyễn Thị Huệ -Công nhân Đội 2, Công ty Cà phê Ia Sao 2 trồng năm 1986 vẫn đạt sản lượng 24 tấn quả tươi/ha. Ảnh: Đinh Yến

Những công nhân tiêu biểu trong lao động giỏi, sáng tạo

(GLO)- Bằng lòng đam mê, nhiều công nhân tại các công ty cà phê tỉnh Gia Lai đã không ngừng học hỏi và có những sáng kiến mới áp dụng vào sản xuất. Họ không chỉ nâng cao đời sống gia đình mà còn mang lại nhiều nguồn lợi cho đơn vị, góp phần tô thắm thêm phẩm chất tốt đẹp của giai cấp công nhân.

Lặng thầm nghề giám định pháp y

Lặng thầm nghề giám định pháp y

(GLO)- Trong hành trình phá án, đội ngũ bác sĩ và cán bộ giám định pháp y của Phòng Kỹ thuật hình sự (KTHS), Công an tỉnh Gia Lai đóng vai trò rất quan trọng. Tuy vất vả nhưng họ vẫn cần mẫn làm việc, góp phần đấu tranh phòng-chống tội phạm và giữ bình yên cuộc sống.

Cán bộ Đoàn, ĐVTN cùng lực lượng quân đội đóng góp ngày công để đẩy nhanh tiến độ thi công nhà ở cho người dân. Ảnh: P.L

Xóa nhà tạm-Kiến tạo tương lai - Kỳ 2: Góp gạch hồng dựng xây mái ấm

(GLO)-Phong trào chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát đang lan tỏa trên địa bàn tỉnh Gia Lai bằng những việc làm cụ thể, thiết thực. Mỗi tấm lòng, mỗi hành động đều hiện thực hóa mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau” trên hành trình góp gạch hồng dựng xây mái ấm, giúp người dân an cư, lạc nghiệp.

Bắt chồng giữa đại ngàn

Bắt chồng giữa đại ngàn

Nằm nép mình dưới chân núi Voi hùng vĩ, thôn Đarahoa hiện có hơn 340 hộ dân sinh sống, trong đó 80% là đồng bào dân tộc K’Ho. Không chỉ nổi bật bởi khung cảnh đại ngàn thơ mộng, Đarahoa còn gìn giữ một trong những phong tục đặc sắc bậc nhất của người K’Ho, tục "bắt chồng".

Những bưu tá mang báo Đảng tới vùng biên

Những bưu tá mang báo Đảng tới vùng biên

(GLO)- Trong thời đại mà mỗi người đều có smartphone, mạng xã hội nhảy số từng giây, vẫn có những người đều đặn chờ báo giấy để đọc từng mục, gạch từng dòng. Vì lẽ đó, ở xã vùng sâu, xã biên giới, bưu tá vẫn lặng lẽ mang báo Đảng đến tay các cán bộ cơ sở, đảng viên, người có uy tín...

null