Nhọc nhằn nghề nuôi "vua đồi cát"

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Những ngày cuối tháng 5, chúng tôi quay trở lại khu vực cồn cát ven biển thuộc xã Thiện Nghiệp (TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) với ý định tìm hiểu nghề săn bắt con dông cát, công việc nguy hiểm từng cướp đi mạng sống của nhiều người dân xứ này. Ngày nay, loài bò sát vốn được mệnh danh là “vua của đồi cát” đã được người dân đưa về nuôi ngay cạnh nhà, mỗi năm thu lời hàng trăm triệu đồng.
 
Con dông được người dân xã Thiện Nghiệp nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao
Ký ức kinh hoàng
Anh Phùng Minh Tuyền, người chính gốc Thiện Nghiệp, kể lại những ký ức kinh hoàng về công việc săn loài dông cát hay còn gọi là con kỳ nhông, loài bò sát được mệnh danh là “vua của đồi cát” sinh sống nhan nhản trên những cồn cát ven biển, người dân trong làng thường đi bắt về chế biến thành các món ăn thường ngày. Cách đây chừng hơn 10 năm, khi có thông tin lan truyền rằng thịt con dông có tác dụng “cường dương, bổ thận” thì cũng là lúc loài bò sát này được ráo riết săn lùng. 
“Những năm đó, bất kể ngày hay đêm, người dân trong xã đều đổ xô ra những đồi cát để săn bắt dông bán cho thương lái. Giá một ký dông có lúc gần 300.000 đồng, bằng cả tuần đi làm mướn nên ai cũng ham. Nhưng cái giá phải trả cho nghề này quá đắt, nhiều người đi săn dông đã mãi mãi không trở về vì bị sụp hầm cát”, anh Tuyền hồi tưởng. 
Theo những người từng hành nghề săn dông, loài này thường đào hang dưới cát sâu gần mét, nên việc bắt chúng không dễ dàng. Để bắt được nhiều dông, người dân sẽ dùng các dụng cụ đào từ miệng hang sâu xuống lòng đất. Nhiều thợ săn vì mải mê theo dấu dông, khoét quá sâu vào lòng động cát nên dẫn đến bị sập hầm, cả thân người bị cát chôn vùi mất mạng. “Ngày đó, cuộc sống của người dân trong xã còn nghèo nên dù biết nghề này nguy hiểm nhưng cũng phải đánh liều”, ông Năm, người dân từng đi săn dông, kể. 
Cái gì nhiều mà bị khai thác nhiều rồi cũng kiệt quệ. Con dông tự nhiên ở Thiện Nghiệp cũng vậy. Nhiều thợ săn một thời nhìn những chú dông cát ít ỏi còn sót lại đã nảy lên ý tưởng đưa “vua của đồi cát” về vườn nhà để nuôi. Và rồi, với bản tính cần cù, chịu khó của người dân miền biển, họ đã tìm cách chinh phục thiên nhiên, biến những khó khăn trở thành tiềm năng để phát triển. Con dông bắt đầu sinh sôi trên chính nơi họ đã từng tìm cách tận diệt.
“Vị vua” dễ tính
Qua lời kể của một số người tiên phong nuôi dông thương phẩm ở vùng đất Thiện Nghiệp mới thấy được hết những khó khăn mà họ đã phải trải qua. Ban đầu người dân trong xã đưa dông tự nhiên về nuôi nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm nên phần thì thoát ra ngoài, phần bị chim bói cá, mèo hoang bắt hết nên nhiều người nản. Thế rồi người này chỉ người kia, chính quyền địa phương cũng nỗ lực hỗ trợ nên dần dần người dân nhận ra rằng “vị vua của đồi cát” cũng rất dễ tính. 
Có nhiều năm theo đuổi nghề nuôi dông ở xã Thiện Nghiệp, ông Hà Quang Lưu chia sẻ, công đoạn làm chuồng là quan trọng nhất vì loài này đào bới rất giỏi, nếu chuồng không kín là chúng thoát ra ngoài hết. Chỉ vào cái chuồng nuôi dông rộng gần 4 sào của mình, ông Lưu cho biết, loài này chỉ thích nghi trên đất cát thoát nước nhanh, còn trên đất thịt nước đọng là chúng không ưa. Trên một sào đất, người nuôi sẽ dùng khoảng 150 tấm tôn xi măng chôn sâu một đầu xuống đất khoảng 50-60cm, bao quanh toàn bộ khu nuôi để dông không đào lỗ thoát ra được. Còn để dông không nhảy ra ngoài, người dân dùng tôn láng, gạch trơn ốp quanh hàng rào tôn xi măng. Sau công đoạn này, mỗi một sào đất người ta sẽ thả khoảng 1.000 con dông giống vào để nuôi. 
“Tuy là loài ưa vùng đất cát nắng nóng, nhưng người nuôi cũng phải tạo bóng mát cho chúng có chỗ trú ẩn. Thường tỷ lệ bóng mát chiếm khoảng 30% diện tích chuồng nuôi”, ông Lưu nhấn mạnh. 
Cũng theo ông Lưu, loài dông rất dễ tính, ít uống nước, ăn chủ yếu là các loại rau, củ, trái cây, phế phẩm nông nghiệp... nên chi phí để nuôi rất ít. Sau khoảng hơn một năm, dông trưởng thành đạt từ 300-500gram là bắt đầu thu hoạch. Cùng thời điểm này, dông mái trưởng thành cũng sẽ bắt đầu sinh sản nên người nuôi sẽ vừa bán thịt và bán con giống. Việc thu hoạch loài bò sát này cũng rất đơn giản, người nuôi chỉ cần đặt chiếc lồng bẫy có thức ăn bên trong là chúng chui vào. Thời điểm thu hoạch chính trong năm là từ tháng 3 đến tháng 10, các tháng còn lại là mùa sinh sản của chúng. Trung bình, trên một sào đất, sau khoảng 1 năm, người nuôi sẽ thu được 100kg dông thịt và khoảng 5.000 con dông giống. Với giá bán 600.000 đồng/kg dông thịt, 8.000 đồng/con dông giống hiện nay thì mỗi sào đất người nuôi thu lời khoảng 100 triệu đồng.
Mở hướng du lịch
Du khách đến Bình Thuận tìm mua và thưởng thức bằng được các món chế biến từ thịt dông nên có lúc người nuôi không kịp để bán, giá dông tăng lên 500.000 - 600.000 đồng/kg. Nắm bắt nhu cầu đó, người dân trong xã ồ ạt nuôi dông, có thời điểm diện tích nuôi dông trong xã đạt gần 70ha với hơn 100 hộ nuôi. Nhưng rồi chính sự phát triển ồ ạt, thiếu định hướng nên cung vượt cầu; bên cạnh đó, do đầu ra không ổn định, công tác quảng bá còn bỏ ngỏ khiến ít người biết đến thương hiệu dông Thiện Nghiệp, nên sau nhiều năm hiện toàn xã chỉ còn khoảng 70 hộ nuôi với diện tích 15ha.
Câu chuyện về nuôi dông đang dang dở, ông Hà Quang Lưu nhận được cuộc điện thoại của một hướng dẫn viên du lịch thông báo sẽ có một đoàn khách nước ngoài đến tham quan và trải nghiệm một số món ăn chế biến từ loài bò sát này. Thấy lạ, chúng tôi hỏi: “Tây cũng ăn con dông à anh?”. “Ăn chứ! Ban đầu thì họ sợ vậy thôi chứ sau khi ăn thử thì ai cũng khen ngon”, ông Lưu trả lời. Nói rồi, ông Lưu dẫn chúng tôi đến chỗ nhóm khách nước ngoài đang chuẩn bị thưởng thức các món ăn thơm phức chế biến từ con dông như: dông nướng, gỏi dông, dông bằm… 6 vị khách nước ngoài lúc đầu còn e dè vì chỉ nhìn thân hình nó thôi là đã thấy sợ chứ nói gì đến ăn. Nhưng sau khi được ông Lưu giải thích, dông là một loài động vật bò sát sống trong hang, sáng tinh mơ ra đồi cát tìm ăn rau củ và uống nước sương đêm, vì thế mà thịt thơm, săn và ngọt, được xem là một vị thuốc bổ thì các vị khách bắt đầu tò mò nếm thử. 15 phút sau, 7 món chế biến từ thịt dông đã sạch loáng cả dĩa kèm theo những lời khen từ các vị khách phương xa.
Lúc này chúng tôi chợt hiểu ra, Thiện Nghiệp nằm trong khu du lịch sầm uất nổi tiếng Hàm Tiến - Mũi Né của tỉnh Bình Thuận, mỗi năm đón hàng triệu du khách trong và ngoài nước. Nếu người dân địa phương biết cách vận dụng lợi thế này, biến những trang trại dông thành những điểm tham quan, trải nghiệm mới lạ thì chắc chắn thương hiệu dông Thiện Nghiệp sẽ phát triển ổn định, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
Nguyễn Tiến (SGGP)

Có thể bạn quan tâm

Chiêu trò “việc nhẹ, lương cao”: Vỏ bọc tội phạm mua bán người - Kỳ cuối: Cùng ngăn chặn tội ác

Chiêu trò “việc nhẹ, lương cao”: Vỏ bọc tội phạm mua bán người - Kỳ cuối: Cùng ngăn chặn tội ác

(GLO)- Các cơ quan chức năng, nhất là ngành Công an, chính quyền địa phương là lực lượng chủ công trong phòng, chống mua bán người. Tuy nhiên, toàn xã hội cũng phải cùng vào cuộc và quan trọng nhất là mỗi cá nhân phải chủ động bảo vệ mình bằng cách nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật.

Dư vang Plei Me

Dư vang Plei Me

(GLO)- 60 năm đã trôi qua kể từ chiến thắng Plei Me lịch sử (tháng 11-1965), nhưng dư vang của trận đầu thắng Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức của những cựu binh già. 

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

null