Người Việt làm thuê ở Malaysia - Kỳ 2: Những cô dâu Việt ở Malaysia

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Trong hơn một thập kỷ qua, khi phụ nữ Malaysia ngày càng lấy chồng muộn hoặc thậm chí thích độc thân, nam giới nước này quay sang nước láng giềng tìm bạn đời, trong đó có phụ nữ Việt Nam.

Xu hướng đàn ông Malaysia tìm vợ Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ đầu những năm 2000 và nở rộ sau đó. Theo thống kê của Hãng thông tấn quốc gia Malaysia Bernama, năm 2001 chỉ có 28 phụ nữ Việt Nam lấy chồng Malaysia nhưng đến năm 2005 con số này đã lên đến 1.185 trường hợp, tăng hơn 42 lần.

 

Tác giả bài viết (thứ ba từ trái) chụp ảnh chung với bốn cô dâu Việt tại Malaysia cùng thân nhân.
Tác giả bài viết (thứ ba từ trái) chụp ảnh chung với bốn cô dâu Việt tại Malaysia cùng thân nhân.

80% lấy chồng qua môi giới

Đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia cho biết hiện chưa có con số thống kê chính thức bao nhiêu phụ nữ Việt lấy chồng Malaysia vì nhiều phụ nữ Việt Nam bị lừa hoặc sang đây theo đường du lịch để kết hôn với người Malaysia mà không thông báo với sứ quán hoặc các quan chức nhập cư của nước sở tại. Phần lớn những cuộc hôn nhân này xuất phát từ môi giới hoặc mai mối nên thường có kết cục không hạnh phúc và nảy sinh nhiều hệ lụy pháp lý.

Chiều 2-4, tại quán ăn Việt Nam của chị Ngô Thị Hà ở làng Batu Kapar, một địa điểm tập trung phổ biến của cộng đồng người Việt ở thành phố Klang, chúng tôi bắt gặp rất nhiều phụ nữ Việt Nam rất trẻ đang chăm sóc con nhỏ. Năm cô dâu Việt mà chúng tôi trò chuyện đến từ Thái Nguyên, Thái Bình, Đồng Nai, TP.HCM... đều lấy chồng Malaysia gốc Hoa thông qua sự giới thiệu của những phụ nữ Việt Nam trong cộng đồng. Phần lớn cô dâu Việt này ở nhà nội trợ và chăm sóc con cái để chồng đi làm kiếm tiền.
 

Chị Ngô Thị Hà (40 tuổi) kết hôn với một người Malaysia gốc Hoa góa vợ, hơn chị 20 tuổi. Chị Hà là một trong những cô dâu Việt may mắn khi được chồng thương yêu và san sẻ công việc. Chồng chị vốn làm việc cho một công ty máy tính, nhưng sau khi lấy chị Hà, ông bỏ hẳn việc để phụ giúp vợ trông nom quán ăn.

Người phụ nữ quê Thái Nguyên này vừa mới sinh một bé gái (đã được 6 tháng tuổi) cho biết hai vợ chồng độc lập về tài chính nhưng sẽ cùng nhau góp một khoản tiền vào ngân hàng để trao lại cho con gái khi 18 tuổi. “Chồng tôi có nói rằng tiền bạc không quan trọng vì nếu tôi bỏ ảnh để về Việt Nam là xem như ảnh tay trắng” - chị Hà nói với đôi mắt lấp lánh hạnh phúc.

Trong khi đó, một phụ nữ Việt lấy chồng Malaysia xin giấu tên tiết lộ với chúng tôi rằng gia đình cô được trả 13.000 ringgit (hơn 66 triệu đồng) cho cuộc hôn nhân với một người Malaysia gốc Hoa. Theo Câu lạc bộ phụ nữ Việt Nam tại Malaysia, 80% phụ nữ Việt Nam lấy chồng Malaysia thông qua mai mối và môi giới, trong đó phần lớn là kết hôn với đàn ông Malaysia gốc Hoa.

Không may mắn như chị Hà, những cuộc hôn nhân “không tình yêu” khác thường có kết cục bất hạnh. Có người bị bán cho những ông chồng già, có người phải ôm con chạy trốn, có người phải sống cam chịu do bất đồng văn hóa, ngôn ngữ khó chia sẻ và thấu hiểu lẫn nhau.

Lý giải về lý do tại sao đàn ông Malaysia gốc Hoa thường chọn vợ Việt, chị Nguyễn Thị Bích Phương, đại diện Câu lạc bộ phụ nữ Việt Nam tại Malaysia, nói: “Đàn ông Malaysia gốc Hoa bên này thích vợ Việt vì con gái Trung Quốc ở đây đặt ra yêu cầu rất cao về mẫu người họ sẽ lấy làm chồng. Những người lấy vợ Việt Nam thường có lương thấp hoặc công việc không ổn định”.

Về số lượng phụ nữ Việt lấy chồng gốc Malay theo đạo Hồi, chị Phương cho biết là rất ít, trừ khi phụ nữ Việt Nam chịu theo đạo Hồi hoặc hai bên đến với nhau bằng tình yêu thực sự. Trong số này có chị Trúc Linh ở Ampang, bang Selangor. Vợ chồng chị gặp nhau cách đây 10 năm khi chị Linh đang là sinh viên một trường du lịch ở Vũng Tàu, còn chồng chị làm việc cho một công ty dầu khí Malaysia tại Vũng Tàu. Sau bốn năm tìm hiểu và yêu nhau, hai người đi đến hôn nhân.

Chị Linh cho biết khi quyết định tiến tới hôn nhân với chồng, bản thân chị phải tự điều chỉnh và thực hiện nhiều thay đổi. Ví dụ như chị buộc phải theo đạo Hồi, không được ăn thịt heo và phải ăn mặc kín đáo. Chị Linh kể phải mất hơn một năm chị mới quen dần với những món ăn Malay dành cho người đạo Hồi.

“Dù khác biệt về văn hóa và ngôn ngữ, nhưng tôi cho rằng trong bất kỳ cuộc hôn nhân nào, bí quyết để giữ gìn tổ ấm là cả hai vợ chồng cùng phải điều chỉnh, tôn trọng, chia sẻ và yêu thương lẫn nhau” - chị Linh nói.

Các hệ lụy pháp lý

 

Chị Ngô Thị Hà (đứng) phục vụ khách tại quán ăn của gia đình ở làng Batu Kapar, thành phố Klang. Đa số phụ nữ Việt lấy chồng Malaysia gốc Hoa.
Chị Ngô Thị Hà (đứng) phục vụ khách tại quán ăn của gia đình ở làng Batu Kapar, thành phố Klang. Đa số phụ nữ Việt lấy chồng Malaysia gốc Hoa.

Tuy nhiên, sau nhiều năm chung sống, năm ngoái chồng chị Linh bị đột tử, để lại chị và hai con nhỏ, một bé trai 5 tuổi và một bé gái 6 tuổi. Chưa hết đau buồn vì chồng mất, chị lại phải đối diện với những vấn đề pháp lý phức tạp.

“Lúc chồng tôi còn sống, tôi cứ lần lữa mãi mà chưa nộp đơn xin thường trú nhân. Sau khi chồng qua đời, bộ phận phụ trách nhập cư của Malaysia cắt hết quyền nộp đơn xin PR của tôi. Thậm chí họ còn nói tôi may mắn vì hai con có quốc tịch Malaysia, nếu không thì tôi cũng phải "biến" về nước rồi” - chị Linh thở dài.

Chị Linh bây giờ phải làm lại visa tạm trú từng năm một dưới sự bảo trợ của Câu lạc bộ phụ nữ Việt Nam tại Malaysia, với mức phí 1.500 ringgit/năm (khoảng 7,7 triệu đồng).

Chị Trúc Linh còn kể với chúng tôi những hệ lụy pháp lý khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi mà nhiều cô dâu Việt đã gặp phải khi kết hôn với người gốc Malay theo đạo Hồi. “Phụ nữ Việt Nam biết rõ là đàn ông Malay theo đạo Hồi được quyền lấy bốn vợ, thế nhưng họ vẫn chấp nhận làm “vợ hờ” của những người này và sinh ra những đứa con ngoài giá thú. Những đứa con ngoài giá thú này không có quyền lợi như những đứa trẻ khác như đi học và nhận dịch vụ chăm sóc y tế miễn phí của nhà nước” - chị Linh cho biết.

Ngoài ra, chị Linh cho biết theo đạo Hồi, nếu vợ chủ động đòi ly dị chồng thì người vợ không có quyền phân chia tài sản và giành quyền nuôi dưỡng con cái.

Chị Nguyễn Thị Bích Phương đưa ra những khuyến cáo đối với phụ nữ Việt Nam rằng trước khi quyết định lấy chồng nước ngoài hoặc qua đất nước của chồng sinh sống, điều đầu tiên là cần nắm rõ pháp luật của nước sở tại. Chị nói: “Mình là người nước ngoài, do đó vấn đề pháp lý rất quan trọng. Nếu mình nắm bắt vững thì không ảnh hưởng đến bản thân và biết cách đòi hỏi quyền lợi cho bản thân khi có chuyện không may xảy ra...”.

Chị Phương cũng cho biết đa số phụ nữ Việt Nam lấy chồng Malaysia thường liên hệ với Câu lạc bộ phụ nữ để tư vấn pháp lý. Họ thường hỏi các vấn đề như xin thường trú nhân sau khi kết hôn, được và mất gì sau khi ly hôn, quyền được nuôi con sau khi ly hôn, vấn đề visa sau khi ly hôn hoặc khi chồng mất.

Theo tuoitre

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null