Người Pháp đã làm gì với kho báu triều Nguyễn?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Theo đề xuất của chuyên viên Hán học Devéria, Giám đốc Nha Tiền tệ Ruau gửi đến tân Bộ trưởng Tài chánh Albert Dauphin một bản tường trình về giá trị của phần kho báu triều Nguyễn đã được mang về Pháp...

 Thỏi vàng 100 lạng thời Minh Mạng, ký hiệu V127 thuộc Cơ quan Tiền tệ Paris - Ảnh: Michel Plet
Thỏi vàng 100 lạng thời Minh Mạng, ký hiệu V127 thuộc Cơ quan Tiền tệ Paris - Ảnh: Michel Plet


Phân tích vàng và bạc

Gabriel Devéria là một trong những nhà Hán học hàng đầu ở Pháp lúc bấy giờ. Ông sinh tại Paris năm 1844, là con của Achille Devéria, một họa sĩ và nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời cũng là cháu của Eugène Devéria, một họa sĩ còn nổi tiếng hơn nữa. Từ tháng 2.1860, Gabriel Devéria được cử làm thông ngôn ở nhiều nơi, cuối cùng ở Công sứ quán Pháp tại Bắc Kinh vào năm 1873.

Năm 1880, Devéria trở về Pháp và làm thông ngôn tại Bộ Ngoại giao từ năm 1882. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp lúc bấy giờ là Freycinet từng có lần phụ trách lãnh vực bảo hộ tại bộ nên rất quan tâm đến phần kho báu triều Nguyễn vừa được đưa về Paris.

Ngày 12.11.1886, Freycinet gửi cho Nha Tiền tệ - Bộ Tài chánh một công văn yêu cầu sớm thông báo con số chính xác trị giá của cải trong kho báu triều Nguyễn do cơ quan này đang quản lý. Sự việc trở nên căng thẳng hơn vào ngày 3.12.1886, khi Nha Tiền tệ nhận 3 văn thư do một viên chức Bộ Ngoại giao là De Lalande gửi đến, yêu cầu cung cấp tài liệu nghiên cứu sơ khởi cùng bảng xếp hạng các thỏi vàng bạc trong kho báu.

Cuối cùng thì nhân vật chủ chốt cũng xuất hiện. Đó là Anatole Chabouillet (1814 - 1889), Giám đốc Phòng Huy chương của Thư viện quốc gia Pháp. Ông này xuất thân từ một gia đình trí thức và nghệ sĩ, thường đi lại với các nhân vật nổi tiếng đương thời như nhà viết kịch Mérimée, nhà thơ Alfred de Musset, họa sĩ Delacroix, văn sĩ Gustave Flaubert, công chúa Mathilde…

Ngày 9.12.1886, Chabouillet gửi cho Nha Tiền tệ một văn thư đề nghị này gửi cho Văn phòng huy chương của Thư viện quốc gia một số thỏi vàng, bạc và tiền đồng từ kho báu triều Nguyễn. Dòm ngó kho báu triều Nguyễn lần này là 3 bộ: Ngoại giao, Tài chánh, và Giáo dục & Mỹ thuật. Trước sức ép của những cơ quan này, ngày 16.12.1886, Giám đốc Nha Tiền tệ Jean-Louis Ruau yêu cầu viên chức phụ trách việc sản xuất thử tiền tệ công bố cấu tạo về mặt kim loại và lượng kim loại thuần chất trong các thỏi vàng bạc thuộc kho báu triều Nguyễn. Lần đầu tiên người ta đã nấu chảy một khối lượng vàng nặng 7,396 kg và đến ngày 27.12, kết quả phân tích được chuyển đến Nha Tiền tệ. Theo đó, độ thuần chất của bạc là 99,078%, song với vàng thì tỷ lệ này khá thay đổi, tùy các mẫu khác nhau.


 

Thỏi vàng 100 lạng thời Thiệu Trị, ký hiệu V194 thuộc Cơ quan Tiền tệ Paris - Ảnh: Jean Jacques Castaing
Thỏi vàng 100 lạng thời Thiệu Trị, ký hiệu V194 thuộc Cơ quan Tiền tệ Paris - Ảnh: Jean Jacques Castaing



Nấu chảy hay không nấu chảy ?

Ngày 12.1.1887, theo đề xuất của chuyên viên Hán học Devéria, Giám đốc Nha Tiền tệ Ruau gửi đến tân Bộ trưởng Tài chánh Albert Dauphin một bản tường trình về giá trị của phần kho báu triều Nguyễn đã được mang về Pháp. Trong đó, trị giá của vàng là 3.934.892,54 franc; trị giá của bạc là 2.493.051,18 franc.

Với số quý kim khổng lồ này, người Pháp tính đến nhiều hướng khác nhau: bán đấu giá cho các nhà sưu tập với giá cao hơn giá của riêng chất kim loại; lưu giữ một số bằng chứng lịch sử đã qua; nấu chảy để đúc thành những đồng tiền đang lưu hành trên đất Pháp; và bảo quản tại Bảo tàng Tiền tệ Pháp.

Một tháng sau khi nhận được báo cáo của Ruau, tân Bộ trưởng Tài chánh Dauphin lưu ý việc sớm nấu chảy phần lớn số vàng bạc, mặt khác, chưa đến lúc tổ chức việc bán đấu giá số quý kim còn lại. Trong khoảng thời gian từ 24.5 - 2.7.1887, các cơ quan chức năng thuộc Bộ Tài chánh đã nấu chảy để tinh luyện phần lớn kho báu triều Nguyễn.

Ngày 8.10.1887, Nha Tiền tệ nhận được chỉ thị của Bộ Tài chánh chuyển các thỏi vàng bạc thành những đồng tiền có mệnh giá 20 franc và có giá trị chuyển nhượng trên thị trường. Số vàng đã tinh luyện nặng 1.098,657 kg; số bạc nặng 14.686,764 kg.

Sau khi hầu hết khối lượng vàng bạc trong kho báu triều Nguyễn đã biến thành những đồng tiền lưu hành trên thị trường, người ta tính đến việc xử lý số còn lại. Trong số những cơ quan được lưu giữ một phần, có Thư viện quốc gia Pháp. Ngày 28.5.1888, quản thủ cơ quan này là Léopold Delisle gửi cho Ruau một văn thư xin nhượng một số bảo vật để lưu giữ làm hiện vật lịch sử.

Song việc tranh thủ quyền sở hữu và lưu giữ bảo vật triều Nguyễn phải chờ đến năm 1900 mới được giải quyết rốt ráo. Ngày 2.4.1900, theo đề nghị của Giám đốc Nha Tiền tệ mới là François-Auguste Arnauné, phần còn lại của kho báu triều Nguyễn được tạm thời giao cho viên quản thủ Bảo tàng Tiền tệ lưu giữ. Từ đó, chúng trở thành một trong những chứng tích của chế độ thực dân tại một đất nước châu Á.

Theo Lê Nguyễn (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

(GLO)- Ông Rmah Aleo (làng Pan, xã Dun, huyện Chư Sê) và ông Ayó (làng Piơm, thị trấn Đak Đoa, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) là những người “giữ lửa” và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc đến cộng đồng buôn làng.

null