Ngày Tết nói chuyện chơi chữ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
“Chơi” thì khác với “thực”, tức là để giải trí, để cho vui vẻ trong cuộc sống thường nhật vốn lắm lo toan này.

1.”Chữ” ở đây không bó hẹp ở chữ viết - một cách dùng ký tự để ghi lại lời nói, mà chúng tôi đề cập đến việc “chơi” với cả tiếng nói và cả chữ viết.

“Chơi” thì khác với “thực”, tức là để giải trí, để cho vui vẻ trong cuộc sống thường nhật vốn lắm lo toan này.

Ngày Tết là ngày đoàn tụ, về với gia đình và quê hương bản quán. Mọi người khắp mọi miền tụ về, trong câu chuyện với nhau thường có chuyện về những vùng đất mới lạ với những phong tục, cách ứng xử và đặc biệt là các thổ âm, phương ngữ đó đây… tạo nên những câu chuyện hài hước và thú vị.

Không những thế, theo truyền thống, Tết là phải có Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/ Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh. Những câu đối đỏ, những tấm lịch treo tường, những gói bánh, gói mứt được trang điểm bằng chữ nghĩa rực rỡ… cũng góp cho Tết cái phong vị đặc biệt, dù ngày nay pháo nổ đã bị cấm.

PGS Văn Như Cương từng nhận được vế đối “Thầy giáo tháo giầy, tháo cả ủng - thủng cả áo, lấy giáo án dán áo" và đối lại là “Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa - nhoà cả hương, ôm lương hưu lưu hương".

PGS Văn Như Cương từng nhận được vế đối “Thầy giáo tháo giầy, tháo cả ủng - thủng cả áo, lấy giáo án dán áo" và đối lại là “Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa - nhoà cả hương, ôm lương hưu lưu hương".

2. Một chuyện chơi chữ khá thú vị được Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại, đó là câu nói của Tả Hưng Thánh hỏa đầu tên là Nguyễn Dương mắng Điện tiền chỉ huy sứ Vũ Đái: ”Điện tiền là Vũ ‘Cát’ chứ đâu phải là ‘Đái”. Ở đây, Nguyễn Dương đã chơi chữ đồng âm: Chữ “Đái” vốn nghĩa là giải mũ bị ông hiểu là tiểu tiện. Vậy chữ “cát” sẽ bị ngầm hiểu là tên gọi tục của… cục phân.

Tác phẩm Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi thế kỷ XV cũng có những lần chơi chữ tinh tế. Đến những bài thơ tương truyền là của nữ sỹ Hồ Xuân Hương thì sự chơi chữ đã bùng nổ theo các ý tứ giàu châm biếm, đả kích và hài hước.

Vậy, theo quan niệm rộng đó, chơi chữ có những loại nào?

2.1. Chơi chữ từ tiếng nói, còn gọi là chơi chữ theo phương thức ngữ âm, trong đó nói lái là cách phổ biến hơn cả. Nói lái dựa trên việc người ta đánh tráo, đổi ngược, hoán vị giữa hai tiếng khác nhau để tạo nên tiếng mới, có nghĩa mới tham gia vào câu chuyện. Tùy từng vùng mà người ta “lái” tiếng khác nhau, không cố định, như hoán đổi phần vần, giữ nguyên thanh điệu: Cá đối – cối đá, què chân – quần che, dâu hứa – dưa hấu, quan ngon – con ngoan, mồm to – mò tôm…

Cũng có khi người ta hoán đổi phần vần và thanh điệu, giữ nguyên phụ âm đầu: Các thầy – cầy thác; thầy giáo – tháo giầy; giáo án – dán áo…

Có khi người ta hoán đổi vị trí phụ âm đầu và phần vần, giữ nguyên vị trí thanh điệu (củ chi – chỉ cu) hoặc hoán đổi vị trí phụ âm đầu, đổi chút thanh điệu theo giọng địa phương hoặc đảo vị trí chữ tạo nên sự đa dạng trong nói lái: Bình Định – đình bịnh; Văn nghệ quân đội – văn đội quân nghệ…

Đố nhau nói nhanh những đoạn khó phát âm tạo nên tình thế nói nhịu cũng là một cách chơi chữ: Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch; Liềm tôi lộn liềm o; Buổi trưa ăn bưởi chua; Giặt khăn xanh vắt cành chăn; Nàng lê lên núi lấy nước nấu lòng; Ông bụt ở chùa Bùi cầm bùa đuổi chuột…

Người ta còn chơi chữ bằng cách nhại giọng địa phương, nhại nói ngọng: Con tâu tắng buộc bờ te tụi/ Ăn no tòn như quả tống teo; Cái quần vừa dại vừa rông/ Mặc vào cứ tưởng là không mặc gì; Nó bảo nhau rằng ấy ái uông…

2.2. Chơi chữ bằng nghĩa của từ vựng có nhiều cách.

- Chơi chữ đồng âm khác nghĩa: Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn; Lệnh ông không bằng cồng bà; Chị Xuân đi chợ đầu hè / Mua cá thu về chợ hãy còn đông; Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc / Thương nhà mỏi miệng cái da da.

- Chơi chữ gần âm khác nghĩa: Chi hồ giả dã – Chi hồ rả rả; Học tài thi phận – Học tài thi lận; Khoa học xã hội – Khoa học xả hơi…

- Chơi chữ đồng nghĩa khác âm hoặc dùng một tập hợp từ trong trường nghĩa nghề nghiệp: Thiếp từ thủa lá thắm xe duyên, khi vận tía, khi cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bố đỏ/ Chàng nay ở suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh (Nguyễn Khuyến – Câu đối Vợ thợ nhuộm khóc chồng); Da trắng vỗ bì bạch/ Rừng sâu mưa lâm thâm (dân gian); Thế Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế thế thời phải thế/ Khi công hầu, khi khanh tướng, trong trần ai ai dễ biết ai;Tưởng tơ tơ tưởng vì tơ/ Trăng lồng bóng nguyệt gió đưa phong tình….

- Chơi chữ bằng cách bịa phần vần để tạo nghĩa mới cho tên nước ngoài hoặc chữ viết tắt: SALEM (tên nhãn thuốc lá) thành Sao anh làm em mãi; CAPSTAN (nhãn thuốc lá) thành Cho anh phát súng tim anh nát, rồi đọc ngược lại là Nhưng anh tin số phận anh còn…

2.3. Chơi chữ sử dụng các câu ngữ pháp

- Bớt một thành phần câu: Câu chuyện ngụ ngôn Phúc thống phục nhân sâm kể về một ông lang băm đọc chưa hết câu trong sách, làm chết bệnh nhân là một ví dụ. Cả câu văn vốn là Phúc thống phục nhân sâm tắc tử (Đau bụng mà cho uống nhân sâm tất chết), nhưng vì hai chữ tắc tử viết vào tờ sau nên ông không đọc tới, cứ thế mà làm.

- Đảo trật tự các từ tạo câu: Ví dụ: Sai đâu sửa đấy, sai đấy sửa đâu, sửa đâu sai đấy; Lương sao làm thế, làm thế lương sao, làm sao lương thế; Cấm không được hút thuốc thành Thuốc hút được không cấm (đọc ngược lại)…

- Lẩy Kiều, tập Kiều, nhại tục ngữ ca dao: Trăm năm trăm nẳm trăm nằm/ Đêm nay nhất định hai cằm chạm nhau; Trên trời có đám mây xanh/ Ở giữa thủ trưởng xung quanh nịnh thần…

- Chắp tên người, tên tác phẩm thành câu, thành đoạn thơ, đoạn văn: Dế mèn lưu lạc mười năm/ Để O Chuột phải ôm cầm thuyền ai/ Miền tây sen đã tàn phai/ Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang. Ở đây ta thấy các tên tác phẩm của nhà văn Tô Hoài như “Dế mèn phiêu lưu ký”, “Mười năm”, “O Chuột”, “Miền Tây”, “Trăng thề” đã được nhà thơ Nguyễn Xuân Sách ghép lại khéo léo để đùa vui.

Đúng là chơi cho vui vẻ. Gần đây, trên không gian mạng, có một số trang như Tiếng Nghệ, Tôi yêu tiếng Nghệ, nhiều thế hệ cháu con của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ đã sáng tác những thi phẩm bằng phương ngữ quê hương, đọc lên thấy sự tài ba, tinh tế, hài hước và đồng vọng những nỗi niềm xưa cũ.

Với dân nghiên nghiên cứu ngữ học, đó cũng là một nguồn tư liệu quý giá khi chúng ta hướng về việc tìm hiểu cội nguồn Tiếng Việt thân yêu.

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.