Kỳ 2: Làng Thái Bình dưới chân núi Chư Mom Ray

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Dưới chân núi Chư Mom Ray ở huyện biên giới Sa Thầy (tỉnh Kon Tum) có một câu lạc bộ (CLB) hát chèo của những người Thái Bình được lập ra trong nỗi nhớ quê da diết.

Người Thái Bình đem lúa nước, con trâu cái cày lên vùng cao nguyên Ea Sup để biến nó thành vựa lúa của Đak Lak.
Người Thái Bình đem lúa nước, con trâu cái cày lên vùng cao nguyên Ea Sup để biến nó thành vựa lúa của Đak Lak.


Hơn 30 năm trước, cộng đồng người Thái Bình vào đây mở đất, lập điền theo chương trình kinh tế mới.

Họ đi nhưng không quên mang theo linh hồn của xứ sở, để rồi ngày nay giữa cao nguyên bạt ngàn nắng gió, làn điệu chèo “đặc sản” Thái Bình vẫn được cất lên thiết tha sưởi ấm lòng người xa xứ.

Những ngày gian khổ

Theo quốc lộ 14 đến ngã ba Trung Tín, TP. Kon Tum rồi rẽ về phía biên giới hơn 30km sẽ gặp một bình nguyên nằm ven sông Pô Kô được che chắn bởi dãy núi Chư Mom Ray điệp trùng.

Những sườn đồi bát úp phủ một màu xanh mướt của cà phê, cao su đang hứng những cơn mưa dịu mát. Những xóm nhà chen ra sát mép hồ thủy điện Yaly.

Đó là làng Thái Bình-làng của những người dân đến từ tỉnh trung tâm đồng bằng Bắc Bộ-thuộc xã Ia Ly, huyện Sa Thầy.

Ông Nguyễn Trọng Đức, 69 tuổi, chủ tịch Hội cựu chiến binh của xã Ia Ly, cho biết 30 năm trước (1986) ông cùng vợ con, hàng xóm ở tận thôn Nam Đường (xã Nam Cao, huyện Kiến Xương, Thái Bình) vào đây lập nghiệp.

Ông còn nhớ như in hai chuyến xe ca chở 60 hộ từ huyện Kiến Xương ì ạch suốt hai ngày hai đêm mới vào đến nơi. Yaly khi đó là những cánh rừng bạt ngàn, hoang vu và đầy dã thú.

Những căn lều tranh vách nứa được thanh niên xung phong dựng lên giữa rừng cho các hộ gia đình đi kinh tế mới trú ngụ.

“Ngoài quê phát cho sáu tháng lương thực, mỗi khẩu được 13 kg gạo/tháng. Chúng tôi phải phát rừng, chặt cây, khoai hoang để trồng ngay sắn khoai ngô đậu cho kịp có cái ăn trước khi khẩu phần gạo cấp phát vừa hết. Khi có cái ăn hằng ngày rồi thì bắt đầu trồng cây dài ngày cà phê, cao su”-ông Đức nhớ lại.

 

Vựa lúa lớn nhất tỉnh Đak Lak của người Thái Bình

Không chỉ có làng ở Sa Thầy (Kon Tum), người Thái Bình còn có làng ở Đak Lak. Đến xã Ea Bung, huyện Ea Sup (Đak Lak), bạn sẽ bắt gặp những cánh đồng lúa nối tiếp nhau trải dài đến tận chân núi- một hình ảnh khác biệt giữa cao nguyên đất đỏ bazan bạt ngàn cà phê, cao su.

Đó là xã kinh tế mới của người Thái Bình nổi tiếng với nghề trồng lúa. Thung lũng Ea Súp bằng phẳng, đất màu mỡ, cùng với nguồn nước thủy lợi Ea Súp Hạ sau này có thêm Ea Súp Thượng, gặp bàn tay trồng lúa thiện nghệ của người Thái Bình, chỉ một thời gian sau rừng hoang đã thành những đồng ruộng tốt tươi, vựa lúa lớn nhất tỉnh Đak Lak.

Ban đầu Nhà nước chia cho mỗi hộ một thửa đất 20 mét chiều ngang, chiều dài chừng 50m để làm nhà và sản xuất. Nước uống phải mang từng xô từ dưới suối lên nhà trên sườn đồi. Nồi cơm chỉ thấy toàn sắn. Nhiều người không chịu được khốn khó đã lặng lẽ quay về quê cũ.

“Tôi là trưởng thôn, đội trưởng đội sản xuất số 1, nên phải gương mẫu ở lại. Nhưng có về cũng không còn nhà nơi quê cũ vì đã bán hết rồi”-ông Đức nói.

Ngày thủy điện Ia Ly tích nước, những cánh đồng dưới những thung lũng là vựa lúa chính của người làng Thái Bình cũng chìm theo.

Bà Chu Thị Mây, 62 tuổi, người làng Thái Bình, kể gia đình bà phải thuê lại các thửa ruộng của đồng bào thiểu số để trồng lúa.

“Hồi mới lên đây, bà con dân tộc thiểu số trong vùng còn đóng khố, ngực trần, địu con trên lưng vừa tỉa lúa trên rẫy. Đồng bào thiểu số ở đây chỉ biết làm lúa rẫy thôi, chẳng ai làm lúa nước dù các thung lũng bằng phẳng và đất bùn rất tốt để cấy lúa”-bà Mây kể.

Người dân tộc Jrai giỏi làm nương rẫy nên người Thái Bình “quê lúa” đã giúp cho họ biết làm lúa nước. Hai bên giúp nhau và sống chan hòa. Thủy điện Ia Ly tích nước, làng Thái Bình rời khỏi làng cũ ở lòng hồ từ năm 1995 và di dời lên trên đồi là chỗ ở bây giờ.

Do quê hương cũ vẫn canh cánh trong lòng, người dân nơi đây quyết định đặt tên cho hai thôn mới với tên gọi Đông Hưng và Kiến Xương (tên hai huyện của tỉnh Thái Bình).

Một căn nhà nhỏ, tường vôi mái tôn, rộng chừng 40m2 được xây dựng giữa hai thôn với dòng chữ Hội trường làng Thái Bình. Ông Đức bảo căn nhà này là nơi hội họp mỗi khi lễ, Tết hoặc các đoàn ở quê Thái Bình vào thăm.

Câu chèo vọng cố hương

Căn nhà nhỏ của vợ chồng anh Phạm Văn Trưởng nằm cuối thôn Đông Hưng, khuất hẳn giữa rừng cao su. Lủng lẳng trên vách tường là các loại đàn to nhỏ, những cái trống và hình ảnh của đội chèo Thái Bình. Ẩn sau nét vạm vỡ của người đàn ông cường tráng này là nét chân chất của người nghệ sĩ.

Anh Trưởng bảo rằng dù công việc làm nông đầu tắt mặt tối nhưng những điệu hát chèo đặc trưng của người Thái Bình đã ngấm vào máu, dù đi đâu về đâu người quê anh vẫn cứ mang theo.

 

Anh Phạm Văn Trưởng, người lưu giữ hồn chèo trên Cao nguyên
Anh Phạm Văn Trưởng, người lưu giữ hồn chèo trên Cao nguyên


Anh Trưởng kể mình chỉ là người kế thừa việc quản lý CLB hát chèo do cha anh trao lại. Trong những ngày khó khăn nhất trên đất Tây Nguyên, cụ Phạm Văn Hoán, cha anh Trưởng, đã lập ra CLB chèo để nguôi ngoai nỗi nhớ làng quê.

Và câu hát những ngày đó như một niềm an ủi duy nhất để người dân bám trụ, xua đi cái buồn bã, lạc lõng giữa núi rừng.

“Những đêm trăng sáng, tôi theo cha cùng các cô chú trong làng giải chiếu ngồi uống chè rồi hát đến khuya”-anh Trưởng kể.

Mấy chục năm qua nếp xưa vẫn giữ, anh Trưởng bây giờ là chủ nhiệm một CLB chèo Thái Bình của gần 20 diễn viên trong làng Thái Bình. Người nhỏ nhất 18 tuổi, người già nhất 70 tuổi, hàng tuần họ đều tập luyện ở nhà truyền thống.

Những buổi liên hoan, mừng năm mới, hội hè ở xã, huyện, tỉnh, đoàn chèo của anh Trưởng đều có mặt.

“Bây giờ thì mọi thứ dễ rồi, ngày trước để có một cây đàn trên núi, cha tôi phải viết thư về cho chú ngoài quê. Chú tôi mua đàn, đóng gói gửi xe đò vào huyện Sa Thầy. Nhà xe gửi lại ở bến xe để cha tôi đạp xe xuống nhận. Có khi nửa tháng, 20 ngày cây đàn mới lên đến làng. Đêm đó cả xóm ngồi hát để cha tôi đàn đến khuya”-anh Trưởng kể.

Sa Thầy là xứ sở của những loài tre trúc và rừng già. Mỗi chuyến về quê, món quà quý giá của anh Trưởng mang theo là một bó trúc để biếu người làng làm sáo. Những ống trúc ở Tây Nguyên phải qua tay những người thợ ở Đông Hưng mới cho ra tiếng sáo hợp với làn điệu chèo.

Anh Trưởng cho biết trai gái trong ngôi làng Thái Bình xa xôi trên cao nguyên này ai cũng mê chèo. Những đứa trẻ mới sinh ra trên Tây Nguyên này đã nghe tiếng hát chèo của mẹ khi còn nằm trong nôi.

Theo Tuoitre

------------------------

Kỳ tới: Làng Ninh Bình ở Gia Lai

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.