Kể chuyện già làng Tây Nguyên - Kỳ I: Quyền lực dưới bóng cây nêu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Hồi niên thiếu, đọc những tác phẩm văn chương về đại ngàn Tây Nguyên, một trong những ấn tượng sâu sắc nhất của tôi là hình ảnh các vị già làng khả kính. Hình bóng họ hiện lên lừng lững giữa buôn làng. Ðầu đội mũ giắt lông chim quý, miệng ngậm tẩu thuốc, gương mặt quắc thước, già ngồi oai vệ giữa trung tâm nhà rông…
Già làng Ê Ðê. Ảnh: Thanh Lộc
Già làng Ê Ðê. Ảnh: Thanh Lộc
Rồi được sống chung giữa miền rừng núi, tôi đã hiểu thêm các vị già làng. Họ không có trong tay cây quyền trượng, nhưng họ có uy tín, có sự thông thái, có các bộ "luật tục" làm công cụ để quản lý, điều hành cộng đồng. Trong xã hội Tây Nguyên cổ truyền, dưới bóng cây nêu, già làng thật sự là một "thiết chế" quyền lực…
Không mấy ai quên hình ảnh cụ Mết, già làng của làng Xô Man trong truyện ngắn "Rừng xà nu" của nhà văn Nguyễn Trung Thành, tác phẩm văn học khắc họa sự vùng lên của đồng bào thiểu số Tây Nguyên chống lại Mỹ - ngụy. Từ nguyên mẫu có thật, nhà văn đã tạc nên cụ Mết như là một cây xà nu bất khuất, tràn đầy sức sống, linh hồn của làng. Lời của cụ thật sự là mệnh lệnh: "Ðốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông!...".
Theo dòng lịch sử, cuối thế kỷ 19, thực dân Pháp xâm lược nước ta, cũng như khắp mọi miền đất nước, chúng dựng lên bộ máy cai trị ở Tây Nguyên. Nhiều già làng đã dẫn đồng bào trốn vào rừng sâu. Nhiều già làng kêu gọi nhân dân không làm tay sai cho giặc, tổ chức làng buôn chiến đấu. Từ khi có Ðảng lãnh đạo thì vai trò của họ càng được phát huy. Già làng dẫn đầu đoàn cháu con tiếp lương, tải đạn, nuôi giấu cán bộ, bảo vệ cơ sở cách mạng và trực tiếp cầm vũ khí diệt thù. Họ không tiếc máu xương, của cải, sức lực, ra sức vận động dòng họ, cộng đồng bền bỉ tham gia hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Ở bắc Tây Nguyên, già làng Stơr đã dắt tay cả buôn làng sát cánh bên Anh hùng Núp cùng "đất nước đứng lên" đánh đuổi giặc Pháp. Ở nam Tây Nguyên, già làng Ðiểu Ðoi chỉ huy đội du kích Xtiêng đánh thắng nhiều trận. Trong đó, già Ðoi cùng dũng sĩ diệt Mỹ Ðiểu Thị Lôi chỉ huy đồng bào lập chiến công lớn trong trận chống càn lực lượng Mỹ dùng trực thăng vận và hỏa lực hạng nặng hòng tiêu diệt căn cứ của ta giữa núi rừng Bờ Xa Lu Xiêng…
Ở vùng đại ngàn bất khuất, kiên trung này từng có rất nhiều già làng như thế.
★★★
Trong xã hội Tây Nguyên ngày xưa, già làng là người có uy tín, người biết giải mã các giấc mơ, thay dân làng đối thoại với thần linh và tìm kiếm sự che chở của Yàng đối với đồng bào trong các biến động. Hành xử mỗi ngày, già làng biết cách lựa chọn phương án phù hợp nhất nhằm phục vụ lợi ích cộng đồng. Ðó là người có tiếng nói quyết định trong việc tìm đất lập làng, chọn mở bến nước, giải quyết vấn đề dịch bệnh hay "cầm trịch" xử lý các vấn đề lớn, nhỏ phát sinh. Luật tục Cơ Ho có câu: "Một sợi tóc trên đầu tôi cũng đi tìm… Mất cán rìu tôi cũng đi tìm/ Mất cán cuốc tôi cũng đi tìm/ Không thấy trâu lần theo dấu vết…", là nói về tinh thần trách nhiệm của già làng trong công việc quản lý buôn làng. Trong các cuộc đối ngoại, già làng cất lên tiếng nói thể hiện thông điệp của làng với các cộng đồng bên ngoài. Trong xã hội cổ truyền, khi "thiết chế làng" là đơn vị xã hội cao nhất thì già làng chính là "vua" của làng. Bởi vậy, người được chọn làm già làng là một vinh dự lớn lao nhưng cũng phải tiếp nhận một sứ mệnh quan trọng. Họ xứng đáng là niềm kiêu hãnh của buôn làng này với buôn làng khác, ngay cả trước thần linh, thiên nhiên…
Xác định vai trò của già làng là người quyết định thịnh suy của làng, thì sự kiện chọn già làng là một "nghị sự" quan trọng. Ðó là diễn đàn thể hiện cao nhất tinh thần xây dựng, cố kết cộng đồng. Luật tục và các bài ca dao cổ có rất nhiều nội dung về việc chọn già làng. Xin trích dẫn một bài hát mang nội dung đó của người Ê Ðê. Cách thể hiện giản dị theo tư duy đồng bào, nội dung bài hát đã nói lên mối quan tâm cao đối với sự kiện lớn: "Nhóm lửa dân làng tụ họp/ Gọi hết anh em chim tơlang/ Thần linh buôn làng/ Anh em nội ngoại/ Về hết mẹ kia/ Về hết cha này/ Về hết ông bà/ Về hết gái góa/ Về hết con côi/ Về hết dâu rể/ Hội họp giữa làng…". Theo quan điểm của người Ê Ðê, người được chọn làm già làng không những "vừa lòng dân" mà còn đúng ý của thánh thần, thiên nhiên: "Hãy bàn bên dưới/ Hãy cãi bên trên/ Nào bàn cùng anh/ Nào cãi cùng chị/ Có gì cứ nói!/ Hãy chọn người ưa/ Sao vừa cây đa, ngọn nước/ Sao đúng cây sung trước làng/ Chọn nên người coi sóc anh em/ Coi khắp cả dân làng…".

Kể chuyện già làng Tây Nguyên -0Giữ nhịp trống cái như giữ sự hài hòa của đời sống buôn làng. Ảnh: Hà Hữu Nết
Kể chuyện già làng Tây Nguyên -0Giữ nhịp trống cái như giữ sự hài hòa của đời sống buôn làng. Ảnh: Hà Hữu Nết
★★★
Ngày xưa, các dân tộc bản địa Tây Nguyên sống theo hình thức cộng đồng khép kín, đơn vị cơ bản cao nhất trong xã hội cổ truyền còn lưu dấu đậm nét cho đến ngày nay là làng. Làng là một chỉnh thể. Người ta thường nói, người Tây Nguyên có tính cộng đồng cao, thì đó là tính cộng đồng làng, thậm chí "tính làng" còn sâu đậm hơn cả ý thức tộc người. Làng được điều hành bằng già làng và hội đồng già làng - tập hợp những người hiền minh. Hội đồng già làng điều hành mọi hoạt động của làng bằng một "hệ thống luật pháp" cổ truyền đặc biệt: luật tục. Cho đến nay, luật tục Tây Nguyên vẫn tồn tại song hành cùng luật pháp và những mặt tích cực vẫn được phát huy trong quản lý xã hội. Già làng chính là người nắm trong tay cán cân quyền năng đó, và luật tục đã tạo nên quyền lực của già làng. Ðiều đặc biệt, quyền uy của già làng không mang tính cường quyền mà nó được cộng đồng chọn trao bởi sự tôn kính.
Cách đây mấy năm, tham gia nhóm nghiên cứu luật tục, chúng tôi cảm nhận, việc điều hành xã hội bằng luật tục trong thiết chế cổ truyền là một biểu hiện độc đáo của đồng bào. Khi chưa có luật pháp, công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội chính là hệ thống tập quán pháp này. Ðó là những văn bản truyền miệng bằng văn vần chế định tất cả mọi phương diện đời sống xã hội và được cả cộng đồng triệt để chấp hành. Như đã nói, người chỉ huy toàn bộ sự tuân thủ hệ thống luật tục của cộng đồng chính là già làng. Muốn phán xử thì phải thuộc làu, thấu hiểu luật tục. Bởi vậy, mỗi già làng là một kho báu về tri thức bản địa, kinh nghiệm sản xuất, ứng xử, là kết tinh sự cao quý, giỏi giang của một người đàn ông tài hoa trong bộ tộc. Ngày xưa, khi chưa có cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể thì tất cả chuyện lớn, chuyện nhỏ trong làng đều do một tay già làng phán quyết. Từ trộm gà, mất lợn, tranh chấp tài sản, bất hiếu, vợ chồng cãi nhau, loạn luân, ngoại tình… thì người dân đều tìm đến nhờ già làng phán xử.
Già làng cũng từng là nhân vật thay mặt cộng đồng quyết định mọi sự thỏa thuận. Thời xưa, tiếng nói của già làng không phải là tiếng nói duy nhất nhưng có giá trị cao nhất của buôn làng. Vì vậy, các nhà cai trị buổi đầu tiếp cận với Tây Nguyên thường chọn con đường kết thân với các già làng. Vương quốc Chăm Pa hay triều đình nhà Nguyễn, thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ đều có chung thủ đoạn. Chỉ đến khi việc "kết nghĩa" với các già làng không thành, không đạt được mục đích thì các thế lực xâm lăng mới dùng tới súng đạn. Người Pháp là cáo già thực dân. Hồi xâm chiếm Tây Nguyên, Pháp mị dân bằng cách lập các "tòa án sắc tộc" nhằm thu phục những người đứng đầu cộng đồng thiểu số. Họ cho các già làng, quan lại xứ Thượng ngồi ghế xét xử các tội dân sự còn "pháp luật nhà nước" thì quan Pháp nắm nhằm trừng trị các đối tượng phản kháng…
Từ hồi đầu thế kỷ đến nay, các nhà khảo cứu dân tộc học, nhất là các vị người Pháp, khi đến với Tây Nguyên, những nhân vật đầu tiên ở các buôn làng mà họ cần tiếp xúc, tìm hiểu chính là già làng. Tham khảo tài liệu của các học giả như H.Maitre, G.Condominas, J.Dournes rồi cả Nguyễn Ðổng Chi, Ðặng Nghiêm Vạn, Tô Ngọc Thanh… thì hầu như trong mỗi câu chuyện đều hiện lên những cuộc giao lưu với các vị già làng. Già làng chính là người mở khóa buôn làng, mở cánh cửa văn hóa tộc người. Bởi vậy, khi chưa chung bếp lửa, chưa chung cần rượu say ngả say nghiêng, chưa chung píp thuốc phà khói mù trời với các già làng thì thật khó hỏi chuyện dân làng. Chưa thể là khách quý của buôn khi chưa được già làng thân thiện dắt tay ra dưới gốc cây nêu trong ánh mắt gần gũi, cởi mở dần của những người đồng bào đang thấp thoáng trong các cửa sổ nhà dài… 
(Còn nữa)
Nhà nghiên cứu Ðặng Trọng Hộ cho rằng: "Quyền lực của già làng là một mô hình quyền lực dân chủ sơ khai do cộng đồng tôn vinh. Dân làng dựa theo luật tục và thực tế buôn làng mà bình xét và trao quyền cho người được cho là hiền minh, thông thái nhất làm người đại diện của họ".
UÔNG THÁI BIỂU (NDĐT)

Có thể bạn quan tâm

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Trong hai năm 2024-2025, thủ phủ Tây Nguyên trúng đậm cà phê. Chỉ tính riêng huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông cũ), các lão nông đã sắm 1.000 ô tô trong năm 2024. Xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi giáp Lào và Campuchia) cũng chung niềm vui ấy...

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Gìn giữ kỷ vật tri ân

Gìn giữ kỷ vật tri ân

(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ hơn 4.000 tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật có giá trị về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; trong đó, có gần 300 hiện vật, tư liệu, hình ảnh về các mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ ở vùng đất Bình Định trước đây.

Vào rừng... chờ ươi bay

Vào rừng... chờ ươi bay

Sau 4 năm, khi những cánh rừng già miền núi TP.Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chuyển mình vào mùa ươi chín, hàng ngàn người dân lại có một cuộc 'di cư' tạm thời vào rừng sâu chờ 'lộc trời' rơi xuống để nhặt.

null