Trong dự thảo văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, KH&CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được xác định là trụ cột quan trọng, tạo động lực mới cho phát triển nhanh, bền vững.
Đóng góp ý kiến cho nội dung này, GS. Trần Thanh Vân cho rằng, cần tách bạch hai hướng nghiên cứu để có cơ chế phù hợp.
Khoa học ứng dụng có mục tiêu, kết quả rõ ràng, rủi ro thấp hơn; trong khi khoa học cơ bản là hành trình tìm tòi tri thức, kết quả khó đoán định, rủi ro cao, nhưng chỉ một phát hiện có thể tạo ra đột phá lớn.
Muốn giảm rủi ro, phải dựa vào năng lực, thành tựu của nhà khoa học, đồng thời đòi hỏi sự tin tưởng, dám chịu trách nhiệm từ cơ quan quản lý.
GS. Vân đưa ra gợi ý quan trọng là phân bổ ngân sách hợp lý, dành 10-20% kinh phí được phân bổ của ngành KH&CN cho khoa học cơ bản, còn lại cho nghiên cứu ứng dụng. Chỉ khi đầu tư đúng mức, Việt Nam mới có thể tiến tới làm chủ công nghệ lõi, giảm phụ thuộc nhập khẩu và xây dựng nền tảng phát triển bền vững.
Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng nêu rõ, cần bảo đảm quyền chủ động của nhà khoa học trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ. GS. Vân cho rằng điều này cần thiết, song phải đi kèm cơ chế hậu kiểm chặt chẽ. Nhà khoa học có trách nhiệm báo cáo tiến độ, giải trình rủi ro và nếu để thất thoát, lãng phí, sẽ bị ngừng cấp kinh phí. Sự liêm chính, trách nhiệm cần đến từ cả hai phía: Nhà khoa học và nhà quản lý.
Với mục tiêu dành 2% GDP và 3-5% ngân sách cho KH&CN, ông đề xuất thành lập hội đồng khoa học độc lập để định hướng chiến lược, có sự tham gia của các nhà khoa học quốc tế uy tín.
Nguồn lực cần tập trung cho lĩnh vực mũi nhọn, gắn với thế mạnh nhân lực của từng địa phương. Cơ chế phân bổ kinh phí cho khu vực công hay tư đều nên giống nhau, miễn là đạt được mục tiêu mà quốc gia hoặc địa phương đề ra.
Để khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ, cần khuyến khích doanh nghiệp thành lập đơn vị nghiên cứu-phát triển, hoặc đầu tư cho trường, viện nhằm giải quyết bài toán thực tiễn. Doanh nghiệp nên đóng góp vào Quỹ KH&CN của tỉnh, với cơ chế miễn thuế cho phần đóng góp.
Với những đơn vị tư nhân làm khoa học phi lợi nhuận, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về đất đai, thuế. Việc miễn tiền thuê đất, hoặc giảm thuế cho những tổ chức được cộng đồng, địa phương công nhận hiệu quả sẽ khuyến khích họ tiếp tục phát triển và cống hiến.
“Muốn KH&CN thực sự là trụ cột phát triển, cần cơ chế thực chất, tập trung đầu tư cho con người, để nhà khoa học yên tâm cống hiến”.
GS TRẦN THANH VÂN
Một điểm nhấn quan trọng khác là chính sách thị thực. Theo GS. Trần Thanh Vân, nhiều nhà khoa học quốc tế rất bận, không có bộ phận chuyên lo thủ tục, nên cần chính sách thị thực thông thoáng, thậm chí miễn thị thực khi tham dự sự kiện khoa học.
Việt Nam cũng nên giảm bớt thủ tục cấp phép hội nghị, hội thảo quốc tế, bởi “không có lý do gì du khách vào Việt Nam dễ dàng hơn nhà khoa học đến để cống hiến tri thức”.
Để chủ trương trong văn kiện đi vào thực tế, GS. Vân nhấn mạnh phải “nói thật, làm thật”, đầu tư cho con người và gắn trách nhiệm giải trình. Cần xây dựng chỉ số định lượng, KPI cụ thể cho người đứng đầu. Một hội đồng đánh giá độc lập gồm đại diện HĐND, liên hiệp hội khoa học kỹ thuật, hiệp hội doanh nghiệp, trường, viện nghiên cứu… nên được thành lập để giám sát triển khai, bảo đảm minh bạch.
Ngân sách dành cho KH&CN phải gắn với cam kết đầu ra. Nếu không đạt KPI, đơn vị sẽ bị cắt hoặc điều chỉnh kinh phí; ngược lại, đơn vị làm tốt cần được tăng ngân sách phân bổ, khen thưởng thỏa đáng. Đồng thời, cần có chế tài rõ ràng cho những trường hợp chỉ làm hình thức.
Ông cũng khuyến khích áp dụng cơ chế thử nghiệm (sandbox) ở cấp xã, phường, ngành, đơn vị; sau đó tổng kết, nhân rộng mô hình hiệu quả, thay vì triển khai đồng loạt nhưng chỉ nằm trên giấy tờ.