Có một nhà tù “độc nhất vô nhị” trên thế giới - Kỳ IV: Vượt ngục, tiếp tục chiến đấu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Trong các phong trào đấu tranh bất khuất của những tù nhân thiếu nhi ở Nhà lao Thiếu nhi Đà Lạt chống lại kẻ thù, còn ghi lại giấu ấn khó quên của những cuộc vượt ngục để trở về với phong trào cách mạng tiếp tục chiến đấu.

Trong hai năm, kể từ khi Nhà lao Thiếu nhi Đà Lạt được mở ra và bị xoá sổ, các chiến sĩ đã tiến hành vượt ngục 7 lần. Trong 7 cuộc vượt ngục có đến 6 cuộc riêng lẻ, quy mô nhỏ song điều đó cũng thể hiện được quyết tâm và khát vọng tự do của các chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi và tạo tiền đề cho một đợt vượt ngục ngoạn mục đêm 7/5/1973.

Các cựu tù nhân thiếu nhi thăm lại nơi ngày xưa họ từng bị kẻ thù giam cầm

Các cựu tù nhân thiếu nhi thăm lại nơi ngày xưa họ từng bị kẻ thù giam cầm

Một trong những nhân chứng trong cuộc vượt ngục ngoạn mục ấy là Đặng Ngọc Chúng, thương binh loại 4/4. Ông là 1 trong 13 cựu tù thiếu nhi ngày ấy vượt ngục thành công để trở về chiến khu tiếp tục chiến đấu cho đến ngày đất nước hòa bình.

Lúc sinh thời, ông Chúng kể: Quê ông ở Điện Bàn, Quảng Nam. Năm 14 tuổi Đặng Ngọc Chúng tham gia Đội du kích mật tại địa phương. Tổ chiến đấu của ông có 3 người chuyên trà trộn vào nhân dân diệt ác ôn, đánh vào các vị trí canh phòng của địch khi chúng sơ hở. Tháng 6/1969, tổ ông nhận nhiệm vụ ném lựu đạn vào Hội đồng xã Mỹ Thạnh - Điện Bàn, lúc này bọn ác ôn và chính quyền ngụy đang họp rất đông người. Do quả lựu đạn ném đầu tiên không nổ (2 quả ném sau thành công) nhưng địch kịp tản ra, diệt được 3 tên và cả tổ của ông đều bị giặc bắt. Giặc đã dùng mọi hình thức tra tấn dã man nhất đối với 3 chiến sĩ nhỏ tuổi này, nhưng vẫn không thu được kết quả gì. Hơn một năm, chúng lôi các ông đi hết nhà lao này đến nhà lao khác.

Cuối năm 1970, giặc đưa 3 người ra Tòa quân sự Vùng III, tuyên án 5 năm tù giam cho mỗi người và tống vào khám Chí Hòa. Tháng 1/1971, các ông bị đưa về Đà Nẵng giam cầm và ngày 23/4/1971, trong đoàn tù binh thiếu nhi giặc “gom” tại các nhà tù ở miền Trung (126 người) đưa về Trung ttâmGiáo huấn Đà Lạt có Đặng Ngọc Chúng.

Hơn hai năm bị giam cầm cùng với 600 tù nhân thiếu nhi bị chính quyền ngụy Sài Gòn gom khắp các nhà tù miền Nam về đây, Đặng Ngọc Chúng hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi, bất khuất chống lại chế độ lao tù hà khắc của kẻ thù. Từ việc đấu tranh chống chào cờ ba que, hát quốc ca ngụy, chống đàn áp tù nhân, đòi quyền tự do trong sinh hoạt, chăm sóc nhau... cho đến việc “trừng trị” kẻ phản bội, chỉ điểm trong hàng ngũ tù nhân.

Không chấp nhận việc nhà tù không trả tự do cho những tù nhân đã hết hạn tù mà tiếp tục đưa đi giam cầm ở những nhà tù khác và mong sớm trở về với cách mạng để trực tiếp chiến đấu là niềm khát vọng của các tù nhân nhỏ tuổi lúc bấy giờ. Nhiều cuộc vượt ngục của tù nhân thiếu nhi đã diễn ra. Lúc đầu, các cuộc vượt ngục nhỏ lẻ, ít người và mang tính tự phát. Về sau, bắt được liên lạc với cơ sở cách mạng bên ngoài đã tổ chức các cuộc vượt ngục có quy mô và chặt chẽ.

Các cựu tù nhân thiếu nhi trong một lần gặp mặt

Các cựu tù nhân thiếu nhi trong một lần gặp mặt

Theo lời kể của ông Chúng, theo kế hoạch, cuộc vượt ngục trên diễn ra đêm 6/5 nhưng do địch kiểm soát quá nghiêm ngặt nên đành phải lùi lại đêm 7/5. Vào khoảng 24 giờ, anh Nguyễn Chay cùng 12 tù nhân ở phòng C đục la phông để leo lên nóc nhà. Để đề phòng và ngăn chặn tù nhân vượt ngục, địch cho giăng kín dây kẽm gai nối với điện cao thế. Các chiến sĩ trẻ tuổi đã xé quần, áo lấy vải khô quấn vào tay, chân để cách điện rồi leo lên nóc nhà. Sau đó, họ lấy vải nối lại thành dây rồi thay nhau tuột xuống đất. Mọi việc diễn ra đúng như kế hoạch, 13 người, 13 đợt di chuyển thành công.

Đến điểm hẹn thứ nhất, theo kế hoạch là hàng rào cuối của trại giam, không thấy ai ra đón (lực lượng bộ đội ém chờ đã rút lui vì vỡ kế hoạch), các chiến sĩ đành bò qua đường bê tông, băng qua cạnh hồ Than Thở để chuyển dần về ấp Sào Nam, nơi có cơ sở của ta.

Trong lúc di chuyển, vì trời tối nên các anh Ngô Bê và Trần Công Khanh lạc đường và bị địch bắt lại. 11 người còn lại bám nhau đến hồ Than Thở để đến điểm hẹn thứ 2, giáp với đường xe lửa. Chờ mãi cũng không thấy ai đến đón. Sự lo âu hiện rõ trên nét mặt mỗi người. Các chiến sĩ quyết định di chuyển đến điểm hẹn thứ 3 nhưng không kịp vì trời đã sáng, đành tìm phương án khác. 11 tù thiếu nhi, mỗi người chỉ độc một chiếc quần đùi, chia thành nhóm xuống ngâm mình dưới suối, lấy cỏ khô phủ lên để nguỵ trang, chỉ chừa mắt, mũi. Đói và chịu cái lạnh dưới 10 độ nên hầu hết bị kiệt sức, nhiều người lên cơn sốt.

Khi màn đêm buông xuống, họ mới bò lên, túa ra vườn tìm rau nhai sống cho đỡ cơn đói. Đến 9 giờ đêm 8/5/1973, họ mới tìm thấy cơ sở. Ngày 14/5, toàn bộ 11 người được đồng chí Phạm Báng, Đội trưởng Đội công tác và đơn vị đặc công 850 đưa ra chiến khu theo hướng Đông Bắc Đà Lạt.

Du khách tham quan Di tích Nhà lao Thiếu nhi Đà Lạt

Du khách tham quan Di tích Nhà lao Thiếu nhi Đà Lạt

Để có những cuộc vượt ngục thành công, cùng với lòng dũng cảm của các tù nhân nhỏ tuổi là sự tiếp lửa của những người chị, người mẹ Đà Lạt. Một nhân vật được nhắc đến nhiều trong đợt vượt ngục đêm 7/5/1973 là chị Đặng Thị Chính. Chị quê Quảng Nam, vào tham gia hoạt động cách mạng tại vùng Ka Đô (huyện Đơn Dương), sau vì cơ sở bị lộ nên được tổ chức đưa lên hoạt động tại Đà Lạt. Tại đây, nhận nhiệm vụ từ đồng chí Năm Dụng (Bí thư Chi bộ Thái Phiên), chị Chính được phân công tìm cách để đưa thư cho anh em trong nhà lao. Giả làm người thăm nuôi, cùng với một cô em họ, chị Chính giấu lá thư ghi chép đầy đủ kế hoạch vượt ngục vào trong ổ bánh mì để đưa vào nhà lao.

Cũng trong cuộc vượt ngục ngoạn mục 7/5, các chiến sĩ nhỏ tuổi đã nhận được sự cưu mang của má Phan Thị Tịch (má Năm Tịch). Nhà má Năm Tịch ở ấp Sào Nam cũng là một cơ sở cách mạng nhưng lúc tìm đến đây, các chiến sĩ nhỏ tuổi vẫn không hay biết. Trong một lần gặp lại các chiến sĩ vượt ngục năm xưa, má Năm Tịch kể: “Lúc đó, thấy mấy đứa nhỏ lấm lem thụt thò ngoài cửa là tui biết tù thiếu nhi vượt ngục. Sau khi lấy quần áo trong nhà cho mấy đứa mặc, tui nấu nồi cơm thật bự, thế mà tụi nó ăn vèo một cái hết sạch…”. Sau đó, má Năm Tịch thông báo cho các cơ sở cách mạng bí mật đưa họ ra chiến khu.

Hay như đợt vượt ngục thứ 4, anh Nguyễn Hoài và Trần Ít thoát ra ngoài trót lọt nhờ sự mưu trí của chị Đặng Thị Ẩn. Chị sinh ra trong gia đình giàu truyền thống cách mạng. Năm 1972, cả bố mẹ của chị bị địch bắt vào tù, bản thân chị lúc đó 18 tuổi cũng bị địch giam ở nhà lao Tuyên Đức. Do bị địch tra tấn và đau ốm, chị được chuyển đến điều trị tại Bệnh viện Phương Lan - Đà Lạt, tình cờ gặp Nguyễn Hoài và Trần Ít cũng vào viện này vì lý do tương tự.

Sau khi dò hỏi, biết họ là tù thiếu nhi, chị Ẩn đã lên kế hoạch trốn khỏi bệnh viện trong sự kiểm soát gắt gao của lính canh. Vào một buổi trưa, khi bệnh viện vắng người, lợi dụng lúc lính canh sơ hở, anh Hoài và Ít thay áo tù bằng áo trắng quần xanh giả làm người vào thăm bệnh nhân rồi được chị Ẩn đưa trốn ra khỏi bệnh viện…

Ông Đặng Ngọc Chúng lúc sinh thời

Ông Đặng Ngọc Chúng lúc sinh thời

Sau khi vượt ngục thành công trở về căn cứ cách mạng, những người tù nhỏ tưổi nhanh chóng được biên chế vào đơn vị bộ đội Đặc công 850 Đà Lạt và các đơn vị chiến đấu khác. Theo lời kể của Đặng Ngọc Chúng, ông được bố trí công tác tại Trạm giao liên T371 (thuộc Thị xã Đà Lạt) với nhiệm vụ liên lạc đưa đón cán bộ cách mạng vào chuẩn bị giải phóng Đà Lạt. Sau năm 1975, Đặng Ngọc Chúng tiếp tục công tác tại Ban Thông tin thuộc Tỉnh đội, rồi chuyển sang công tác tại Bưu điện Lâm Đồng cho đến ngày nghỉ hưu và mất.

Lúc sinh thời, ông Chúng từng tâm sự với chúng tôi, ngày ấy ai cũng khát khao được sớm trở về với cách mạng để chiến đấu nên dù biết hiểm nguy nhưng vẫn chấp nhận tìm phương án vượt ngục. Nhờ vậy, nhiều cuộc vượt ngục cứ diễn ra cùng với phong trào đấu tranh với nhiều hình thức liên tục diễn ra làm cho chế độ lao tù của Trung tâm Giáo huấn thiếu nhi Đà Lạt khốn đốn, dẫn đến bị phá sản chỉ sau hơn hai năm tồn tại….

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, khu vực Nhà lao Thiếu nhi Đà Lạt được giao cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lâm Đồng quản lý, cải tạo làm nơi khám chữa bệnh cho bộ đội với tên gọi Bệnh xá H32. Ngoài dáng vẻ bên ngoài và một số dấu tích khác như: Khu nhà hướng nghiệp, các song sắt tại xà lim và mái ngói còn giữ nguyên, còn lại đã bị thay đổi cho phù hợp công năng của trạm xá. Một phần diện tích nhà lao trước đây được cho Công ty TNHH Rạng Đông thuê để sản xuất hàng dệt len. Một phần xung quanh bị dân lấn chiếm làm nhà ở và trồng trọt…
Sau khi nhà lao được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia, tỉnh Lâm Đồng đã đầu tư, tôn tạo, bổ sung một số hạng mục phục dựng, xây dựng các công trình phục vụ khách tham quan như: quầy hàng lưu niệm, nhà truyền thống. Song song đó là công tác sưu tầm những kỷ vật, câu chuyện kể của các nhân chứng còn sống.
Hiện, di tích được Bảo tàng Lâm Đồng quản lý, khai thác, trở thành một điểm đến lịch sử, một “địa chỉ đỏ” giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ.

-----------------------

KỲ CUỐI-HẾT: NGƯỜI NỮ TÙ THIẾU NHI NGÀY ẤY

Theo UÔNG THÁI BIỂU - TƯỜNG SAN (LĐ online)

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null