Chuyện xây hồ Kẻ Gỗ - kỳ 1: Nửa thế kỷ đợi chờ xây hồ Kẻ Gỗ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Cách đây hơn 40 năm, ngày 26-3-1976, hàng vạn thanh niên tỉnh Nghệ Tĩnh từ miền ngược đến miền xuôi, vai gánh tay gồng có mặt tại nơi rừng hoang núi thẳm để xây dựng công trình thủy nông kỳ vĩ nhất sau giải phóng.

Công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ, với sức chứa 345 triệu mét khối nước, đã thay đổi hoàn toàn đời sống vùng đất Cẩm Xuyên, Thạch Hà và TP. Hà Tĩnh.

 

Lễ khởi công xây dựng hồ Kẻ Gỗ ngày 26-3-1976 - Ảnh tư liệu
Lễ khởi công xây dựng hồ Kẻ Gỗ ngày 26-3-1976 - Ảnh tư liệu

Hơn nửa thế kỷ đợi chờ, từ tài liệu cũ của người Pháp, đại công trình thủy nông này mới chính thức được khởi công.

Dự án từ thời Pháp thuộc

“Mấy ngày nay trở trời, bác mệt lắm! Nhưng bác sẽ cùng các cháu lên lại thăm hồ. Mấy tháng rồi bác chưa lên đó. Trước đây tháng nào bác cũng lên. Lên đó bác như được trở lại quãng đời trai trẻ đầy ắp kỷ niệm của mình” - ông Đào Văn Tinh, nguyên giám đốc Sở Thủy lợi (Hà Tĩnh), nói trong một ngày mưa rét.

Ông Tinh bảo rằng hồ Kẻ Gỗ không những là kỷ niệm của ông mà là quá khứ hào hùng một thời của Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh.

Hồ Kẻ Gỗ được người Pháp thiết kế và chuẩn bị xây dựng vào những năm đầu của thập niên 1930.

Trước đó ở Nghệ Tĩnh nhiều công trình mang đậm dấu ấn của người Pháp như bara Đô Lương ngăn sông Rào Cái, bara Nam Đàn, bara Lệ Thủy, bara Cẩm Trang...

 

Công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ.
Công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ.

Ông Tinh bảo rằng sở dĩ người Pháp quyết tâm làm Kẻ Gỗ vì sự thất bại của bara Cẩm Trang. Khi xây dựng bara Cẩm Trang đã dẫn đến một hệ lụy là hồ chứa này gây ngập nặng trên diện rộng, lợi ích mang lại không như mong muốn nên lòng dân không yên.

“Chỉ vì muốn yên dân nên người Pháp quyết làm Kẻ Gỗ ngay. Họ đã làm 3km kênh mương rồi, nhưng sự việc không thành và đến năm 1939 thì mọi thứ dừng lại do Thế chiến thứ hai nổ ra.

Muốn lấy được lòng dân Cẩm Xuyên, Thạch Hà thì cái cần là cuộc sống được an yên và người dân thấy được lợi ích của mình” - ông Tinh nói.

Theo tài liệu của người Pháp để lại thì ban đầu hồ Kẻ Gỗ chỉ thiết kế với sức chứa 85 triệu mét khối.

“Sau này chúng ta thiết kế lại lên đến 345 triệu mét khối nước, nhưng cho dù 85 triệu mét khối nước mà nếu lúc đó hồ được xây dựng thì người dân Hà Tĩnh đã khấm khá lắm rồi. Ít ra lúa thóc cũng được như người dân vùng Thanh Hóa, Nghệ An...” - ông Tinh tiếc nuối.

Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, câu chuyện hồ Kẻ Gỗ chìm vào quên lãng hơn 10 năm trường cho đến lúc Bác Hồ về thăm quê hương lần thứ nhất vào ngày 15-6-1957.

Trong buổi nói chuyện với người dân Nghệ Tĩnh, thấu hiểu được lòng dân mong chờ, Bác nhấn mạnh: “Phải lục hồ sơ hồ Kẻ Gỗ mà nghiên cứu trước để khi có thời cơ mà xây dựng”.

Trong đoàn đi công tác tại Nghệ Tĩnh cùng Bác lần đó có Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Trần Đăng Khoa. Sau câu nói của Bác, ông Khoa đã thu thập toàn bộ tài liệu về Kẻ Gỗ tại Vinh, Hà Tĩnh và các bảo tàng lưu trữ ở Hà Nội.

Năm 1958, Viện Thiết kế thủy lợi chính thức đặt vấn đề nghiên cứu vấn đề này.

“Đây là sự tiên đoán rất tài tình. Bác vẫn tôn trọng và kế thừa cái người Pháp có. Tôi nghĩ không có câu này của Bác thì năm 1976 chúng ta vẫn chưa thể khởi công Kẻ Gỗ được” - ông Tinh nói.

 

Một góc hồ Kẻ Gỗ.
Một góc hồ Kẻ Gỗ.

Khát vọng ngàn đời

Ông Lê Hồng Sơn, giám đốc Công ty TNHH-MTV Thủy lợi Nam Hà Tĩnh, đơn vị trực tiếp quản lý, vận hành, khai thác hồ Kẻ Gỗ, kể rằng sau giải phóng nguyện vọng thiết thực nhất của người dân Hà Tĩnh là áo cơm.

Hạnh phúc nhất của người nông dân khi cầm cuốc, cầm cày là thửa ruộng của mình có nước.

Năm 1971, trong một lần đi Hà Nội làm việc với trung ương về việc chuẩn bị cho đại hội đảng bộ lần thứ 8, ông Nguyễn Xuân Linh, bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh, đã làm việc với Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn, hai bên có văn bản thống nhất trình lên Ban bí thư và Hội đồng Chính phủ về việc xây dựng hồ Kẻ Gỗ.

Sau khi Ban bí thư và Hội đồng Chính phủ đồng ý, không lâu sau đó tại kỳ họp Quốc hội khóa V năm 1971, công trình trọng điểm quốc gia này chính thức được biểu quyết nhất trí thông qua.

Công trình được thông qua nhưng nhiệm vụ trước mắt là vô cùng khó khăn, cả nước đang tập trung sức người, sức của cho giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam.

Các cơ sở vật chất kỹ thuật lại thô sơ, trong khi khối lượng công việc rất đồ sộ, nặng nề. Chính quyền Hà Tĩnh cùng Bộ Thủy lợi đã huy động chuyên gia, các cán bộ đầu ngành của Viện thiết kế, Viện nghiên cứu và Trường đại học Thủy lợi tập trung, nghiên cứu, tính toán thiết kế, dự toán.

Tỉnh Hà Tĩnh chuẩn bị giải phóng mặt bằng, huy động lực lượng lao động thủ công, chăm lo hậu cần lương thực, thuốc men cho hàng chục vạn người trong thời gian dự kiến thi công công trình là sáu năm.

Ngay tháng 6-1974, Hà Tĩnh đã thành lập hai công ty xây dựng thủy lợi trên 2.600 cán bộ, đội viên, thanh niên xung phong hành quân vào Cẩm Xuyên, Thạch Hà để làm công tác cải tạo lòng hồ, khai thác vật liệu xây dựng, làm đường giao thông, kho tàng, bến bãi.

 

Ông Đào Văn Tinh nhớ lại thời đi xây hồ Kẻ Gỗ.
Ông Đào Văn Tinh nhớ lại thời đi xây hồ Kẻ Gỗ.

Ông Tinh nhớ lại rằng khi đó chỉ mới bước đầu chuẩn bị nhưng đã có 6.000 nam, nữ thanh niên của tỉnh lao động không kể ngày đêm.

Chỉ trong vòng sáu tháng, hơn 24.000m2 kho tàng, bến bãi, 20km đường giao thông được xây dựng phục vụ cho việc vận chuyển các thiết bị cơ giới.

“Gọi là cơ giới nhưng cũng chỉ có mấy cái xe ủi, máy đào loại nhỏ mà xăng cũng không có để chạy. Rồi tất cả phải dùng sức người. Hàng chục ngàn đôi quang gánh được sản xuất, hàng vạn mét khối đất, đá, cát, sỏi... được giải phóng khỏi lòng hồ. Tất cả chờ ngày quyết định khởi công” - ông Tinh kể lại.

Sáng 26-3-1976, sau tuyên bố khởi công công trình của ông Trương Kiện, chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh lúc bấy giờ, ba quả mìn nổ đanh tai tạo nên cột khói bốc cao hàng chục mét làm tín hiệu.

Hàng vạn công nhân thanh niên hô xung phong lao vào chiếm lĩnh các trận địa là các ngọn đồi, con suối. Họ lao động miệt mài suốt ngày đêm, nếm mật nằm gai gian nan với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ...

Vì sao chính quyền chọn ngày 26-3-1976 để khởi công công trình hồ Kẻ Gỗ? Ông Tinh lý giải đó là ngày thành lập Đoàn thanh niên và chỉ có thanh niên mới làm nổi công việc này.

“Đất nước vừa giải phóng xong, khí thế còn hừng hực, tầng lớp thanh niên còn hăng say lắm nên để cho họ cống hiến tuổi thanh xuân xây dựng quê hương.

Điều thứ hai là tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An vừa sáp nhập thành tỉnh Nghệ Tĩnh (ngày 1-1-1976) nên công trình này là dấu ấn thiết thực để chào mừng sự kiện đó.

Điều thứ ba là cả nước cùng bước vào cuộc chiến chống đói nghèo. Vì vậy chúng tôi quyết định chọn thời điểm này để khởi công xây hồ Kẻ Gỗ” - ông Tinh nhớ lại.

Theo tuoitre

Có thể bạn quan tâm

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

(GLO)- Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Ia Dơk (tỉnh Gia Lai) là căn cứ cách mạng quan trọng, đồng thời cũng là nơi hứng chịu nhiều đau thương, mất mát. Những cánh đồng từng bị bom cày xới, những mái nhà bình yên hóa tro tàn, bao số phận người dân vô tội bị giặc sát hại.

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

(GLO)- Gần 40 năm gắn bó với rừng, ông Nguyễn Văn Chín-Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra (xã Hra, tỉnh Gia Lai) được biết đến như vị “thủ lĩnh giữ rừng” đặc biệt: từ việc biến lâm tặc thành người giữ rừng đến phủ xanh vùng đất cằn cỗi nơi “cổng trời” Mang Yang.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Trong hai năm 2024-2025, thủ phủ Tây Nguyên trúng đậm cà phê. Chỉ tính riêng huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông cũ), các lão nông đã sắm 1.000 ô tô trong năm 2024. Xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi giáp Lào và Campuchia) cũng chung niềm vui ấy...

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Vào rừng... chờ ươi bay

Vào rừng... chờ ươi bay

Sau 4 năm, khi những cánh rừng già miền núi TP.Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chuyển mình vào mùa ươi chín, hàng ngàn người dân lại có một cuộc 'di cư' tạm thời vào rừng sâu chờ 'lộc trời' rơi xuống để nhặt.

null