Chuyện người viết "Bí mật một khu rừng"

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Nói đến những tác phẩm văn học thiếu nhi nổi tiếng được ưa thích không thể không nhắc đến “Bí mật một khu rừng” của nhà văn Hoàng Bình Trọng. Tính đến nay, tác phẩm này đã được tái bản đến 9 lần. Mặc dù ông đã có 9 tiểu thuyết, 6 tập thơ, 2 trường ca và 5 tập truyện ngắn xuất bản nhưng nói tới Hoàng Bình Trọng, người ta vẫn thường nghĩ đến “Bí mật một khu rừng”.
Nhà văn Hoàng Bình Trọng (ảnh do nhân vật cung cấp).
Nhà văn Hoàng Bình Trọng (ảnh do nhân vật cung cấp).
Nhà văn Hoàng Bình Trọng (SN 1942), chính quán Thanh Khê, huyện Bố Trạch nhưng từ lâu ông về sống ở quê vợ-xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. Đã 77 tuổi, lại thêm căn bệnh hen phế quản mãn tính, giờ Hoàng Bình Trọng gần như không ra khỏi nhà. Thế nhưng mỗi khi có bạn văn tới thăm, ông vẫn vui vẻ ngồi dậy mang bình rượu ra, sau khi đã rót cho khách ông cũng tự rót cho mình một ly rồi… để đó. Với vốn kiến thức uyên bác, lại biết chữ Hán, tiếng Nga, tiếng Pháp, ông có thể nói đủ mọi thứ chuyện “trên trời dưới bể”. Trong một lần như thế, tôi được ông kể cho nghe chuyện “bếp núc” của “Bí mật một khu rừng”.
Bỗng dưng thành... nhà văn
Năm 1963, tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội, Hoàng Bình Trọng được điều về công tác tại Đoàn Địa chất 20. Trong một lần đi điều tra tài liệu cho công trình bản đồ địa chất miền Bắc, đoàn tìm tới bản Chiềng Khoang để nghỉ chân. Thế nhưng khi đến nơi thì bản đã biến đâu mất, chỉ còn trơ dấu tích những nền nhà cũ. Vừa đói vừa mệt nhưng họ cũng không còn cách nào hơn là phải tìm cho được nhà dân. Được một quãng, nhìn lên sườn núi chợt thấy ánh đèn le lói, cả đoàn mừng rỡ giục nhau đi mau tới đó. Tưởng gặp bản, hóa ra chỉ là một căn nhà sàn biệt lập. Ngọn đèn đang cháy và vật dụng trong nhà cho thấy có người ở nhưng không biết họ vừa đi đâu. Tuy hồ nghi và đoán già đoán non đủ chuyện nhưng trời đã tối lại mưa, mọi người quyết định cứ liều ở lại.
Sáng hôm sau, đoàn dậy sớm nấu cơm ăn rồi tiếp tục lên đường. Vừa ra khỏi cổng thì thấy một ông già và cô gái trẻ đang tiến lại. Đó là những chủ nhân của ngôi nhà-ông Lò Văn Páo và con gái Lò A Nhi. Đang tò mò, mọi người xúm vào hỏi chuyện. Một thoáng ngần ngừ, ông Páo kể cho mọi người nghe vì sao cha con ông phải sống biệt lập nơi đây.
Lò Văn Páo trước kia ở bản Chiềng Vả. Trong bản có một lão thầy mo rất ác. Ngày A Nhi ra đời, có một người không may bị sét đánh chết. Sẵn có mối ác cảm với ông Páo, lão thầy mo bèn vu cho vợ ông đẻ ra “ma gà”. Tin là thật, cả bản tuyệt giao khiến vợ ông, mới sinh con được 10 ngày, phải theo chồng đi đào củ mài rồi cảm lạnh mà chết. Càng tin lời thầy mo, dân bản đòi chôn sống A Nhi nhưng ông Páo quyết không cho và mang con đến bản Chiềng Khoang xin ở. A Nhi càng lớn càng xinh đẹp, tiếng đồn khắp vùng khiến lão thầy mo càng tức tối. Lão tìm đến Chiềng Khoang, rắc phốt pho vào vườn nhà ông rồi tung tin A Nhi là con “ma gà” bên bản Chiềng Vả trốn sang đây. Ban đêm thấy vườn ông Páo lòe lên những tia sáng nhảy nhót như ma trơi, dân làng tin ngay. Họ hốt hoảng dời bản và đuổi cha con ông. Không còn cách nào khác, ông Páo đành dẫn con lên sườn núi làm nhà sống cô độc từ bấy đến giờ…
Nghe câu chuyện cảm động, đoàn quyết định tìm đến bản Chiềng Khoang. Nhưng vừa thấy mặt thì nhà nào cũng đóng sập cửa vì biết họ vừa từ nhà con “ma gà” đến đây. Hoàng Bình Trọng nghĩ ra cách: Trước hết phải tiếp cận với đám trẻ con để tìm hiểu tình hình. Ông vẽ tranh, làm xiếc để dụ chúng. Tò mò, người lớn cũng dần dần kéo đến xem. Nhân cơ hội, ông làm các thí nghiệm đơn giản về chất phốt pho và giải thích cho dân làng. Cuối cùng thì họ đã hiểu thủ đoạn của lão thầy mo và đồng ý cho cha con ông Lò Văn Páo về bản ở…
Năm 1967, Hoàng Bình Trọng được điều về dạy Trường Trung cấp Địa chất sơ tán ở Phúc Yên. Những lúc rỗi rãi, ông thường đem chuyện trên Tây Bắc kể cho sinh viên nghe, trong đó có chuyện cha con A Nhi bị thầy mo vu là “ma gà”. Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi bấy giờ cũng đang dạy học ở đó, khi nghe được rất thích. Ông muốn viết nên nhờ Hoàng Bình Trọng kể lại cho nghe thật chi tiết, kể cả những chuyện cán bộ địa chất mang áo, đội mũ như thế nào, động tác cầm búa ra sao… Thế nhưng bắt tay vào viết thì bị “đổ”. Một lần lên Nhà Xuất bản Kim Đồng chơi, Nguyễn Bùi Vợi kể với ông Nguyễn Quỳnh, cán bộ biên tập rằng Hoàng Bình Trọng có một chuyện rất hay như thế. Ông Quỳnh nghe cũng rất thích bèn mời Hoàng Bình Trọng lên ký hợp đồng và cho ứng trước 400 đồng (hơn nửa năm lương của kỹ sư mới ra trường lúc đó). Lúc đầu, Hoàng Bình Trọng cũng phân vân vì không biết viết có nổi không, nhưng rồi nể Nhà Xuất bản quá, cuối cùng ông cũng nhận lời. Hoàng Bình Trọng kể: Cứ tưởng câu chuyện đã có thế rồi thì chỉ việc thể hiện lại. Nào ngờ khi bắt tay vào việc lại rất chật vật, “đổ” lên “đổ” xuống mấy lần. Mãi rồi mới tìm được lối ra. Mạch văn được khai thông, chưa đầy một tháng ông đã hoàn thành bản thảo. “Bí mật một khu rừng” được in ngay sau đó với con số kỷ lục 45.000 bản; được tổ chức hội thảo như một sự kiện văn học và Hoàng Bình Trọng được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. 
 Tác phẩm “Bí mật một khu rừng” của nhà văn Hoàng Bình Trọng. Ảnh: K.N.B
Tác phẩm “Bí mật một khu rừng” của nhà văn Hoàng Bình Trọng. Ảnh: internet
Một đời “cày bừa ruộng văn”
Năm 1971, Hoàng Bình Trọng vào bộ đội theo lệnh tổng động viên. Năm 1976, ông được xuất ngũ, về làm biên tập Tạp chí Đất Tổ của Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phú. Một thời gian sau, Bình Trị Thiên tách tỉnh. Nghĩ tuổi già “lá rụng về cội” nên ông xin về Tạp chí Nhật Lệ (tỉnh Quảng Bình). Nào ngờ công tác tổ chức trục trặc, vậy là ông bỗng dưng thất nghiệp. Để kiếm kế sinh nhai, ông lang thang vào tận Đồng Nai đào hố cà phê thuê. Một chiều đang còng lưng cuốc hố, chiếc radio ông mang theo để giải buồn bỗng vang lên chương trình đọc truyện thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam. Ông thích thú quay sang hỏi mấy thanh niên cùng làm thuê:
- Này các chú, có biết Hoàng Bình Trọng viết truyện đang đọc trên đài là ai không? Là tớ đây này! 
Nhìn khuôn mặt đẫm mồ hôi lấm lem bụi đất của ông, cả đám bò ra cười. Cười chán, một cậu nói:
- Phải, ông cũng là Hoàng Bình Trọng nhưng mà là Hoàng Bình Trọng dỏm. Đừng tưởng mình trùng tên mà lừa được bọn này nhé. Nhà văn mà lại đi đào hố cà phê như ông à!
Sau thời gian lang thang làm thuê, thấy khó lòng trụ nổi, ông đành bỏ về quê vợ. Được họ hàng cho một mảnh đất nhỏ, vợ chồng ông làm căn nhà tạm để tá túc. Tuy nhiên, kế sinh nhai thì vẫn chưa biết thế nào. Để có cái đắp đổi qua ngày, ông quyết định lên rừng lấy củi bán. Một lần đụng kiểm lâm, ông bị giữ củi vì chưa đóng thuế cửa rừng. Không có cách nào khác, ông đành nhắn vợ mang tiền lên nộp. Trong lúc ngồi chờ, có lẽ thấy cái vẻ tội nghiệp của ông, một kiểm lâm viên còn trẻ đến hỏi chuyện làm quen. Nghe nói ông ở Quảng Hòa, cậu ta hỏi ông có biết nhà văn Hoàng Bình Trọng không. Bấy giờ mà nói mình chính là Hoàng Bình Trọng thì kỳ quá, lại vốn tính ưa hài hước, ông cười khà khà bảo: “Biết chứ. Thì cái lão Trọng ấy cũng khốn khó, cũng phải lên rừng lấy củi kiếm ăn như tớ đây thôi!” Nghe vậy, cậu ta cười ngất: “Bác cứ đùa. Làm nhà văn mà phải đi nhặt củi kiếm ăn thì còn ai dám làm nhà văn nữa”. Vừa lúc đó, vợ ông đạp xe tới. Vốn tính thật thà, chất phác, chị nói lớn: “Sao anh không cho họ biết mình là nhà văn Hoàng Bình Trọng. Biết đâu người ta nể mà cho lại củi?”. Cậu kiểm lâm viên ngớ người. Hoàng Bình Trọng được mời vào trạm uống nước, hỏi han. Rồi không chỉ trả lại củi, họ còn cho ông thêm mấy gánh nữa, lại cho xe công nông chở đến tận nhà.
Sau quãng thời gian kiếm sống cơ cực kiểu như vậy, Hoàng Bình Trọng cũng được Tạp chí Nhật Lệ nhận hợp đồng làm chân biên tập với lương tháng 300 ngàn đồng. Còn nhớ, năm 1997, tôi gặp ông ở trại sáng tác. Trong lúc chúng tôi chơi nhiều hơn là viết, được đồng nào trại cho đem uống bia hơi bằng hết thì ông, trong tiết trời nóng bức tháng 6 của Hà Nội, vẫn cứ cặm cụi trên từng trang giấy từ sáng tới khuya. Thấy tôi ái ngại, ông bảo: “Tớ không chỉ viết nuôi mình, còn phải viết để nuôi vợ nuôi con nữa…”. Mới mừng cho ông, được một thời gian thì nghe ông mất việc ở Tạp chí Nhật Lệ vì khâu biên chế. Lại trở về quê với vợ sống nhờ thơ văn với những đồng nhuận bút còm. Cũng may dạo này các con ông đã trưởng thành, thỉnh thoảng cũng được nhờ tí chút…
Tôi biết, thời ông là kỹ sư, Phó đoàn địa chất, lãnh đạo mấy trăm con người thì bạn ông có người chỉ mới học sơ cấp mà sau này làm quan rất to. Giá không mê văn chương mà cứ trở về trường, có lẽ bây giờ ông cũng là giáo sư tiến sĩ, có kém gì ai. Nhưng mà cái nghiệp văn là thế, như ông vẫn tự trào: “Vì không có chí làm vua/Nên trời bắt tớ cày bừa ruộng văn”.
 NGỌC TẤN

Có thể bạn quan tâm

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Mở lối vào thế giới sắc màu

Mở lối vào thế giới sắc màu

(GLO)- Từ nét màu nước chấm phá, mực tàu loang trên giấy dó, đến những dòng thư pháp bay bổng hay gam màu rực rỡ của tranh sáp màu, acrylic - tất cả hòa quyện tại những lớp học vẽ. Mùa hè, những lớp học nhỏ ấy lặng lẽ góp phần vun đắp tâm hồn nghệ thuật cho nhiều bạn trẻ.

Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

Cặp đôi nghệ sĩ Nguyễn Cơ-Hồng Mai: Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

(GLO)- Cùng sinh năm rồng (1988) và lớn lên với tình yêu dành cho từng nhịp vũ đạo, Nguyễn Văn Cơ và Trần Thị Hồng Mai-hai nghệ sĩ trưởng thành từ Nhà hát Ca múa nhạc tổng hợp Đam San trở thành cặp đôi hiếm hoi của làng múa ở cao nguyên Pleiku, luôn song hành cả trên sân khấu và trong đời sống.

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

(GLO)- Vở diễn Trò chơi của quỷ do Ðoàn ca kịch bài chòi Bình Ðịnh (thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Gia Lai) dàn dựng vừa giành huy chương đồng tại Liên hoan Nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc về “Hình tượng người chiến sĩ Công an nhân dân” lần thứ V-năm 2025.

"Núi trên đất bằng"

"Núi trên đất bằng"

(GLO)- Tiến sĩ Hà Thanh Vân đã nhận xét Tiểu thuyết "Núi trên đất bằng" của Võ Đình Duy là một tác phẩm văn chương đầu tay ra mắt năm 2025, đánh dấu bước chuyển đầy bất ngờ từ một kiến trúc sư trẻ sống ở Gia Lai sang hành trình kiến tạo thế giới văn chương.

NHÀ THƠ ĐÀO AN DUYÊN: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

Nhà thơ Đào An Duyên: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

(GLO)- Với nhà thơ Đào An Duyên, đọc và viết chính là hành trình nuôi chữ. Trong hành trình ấy, chị chọn một lối đi riêng, chắt chiu xúc cảm, gửi tiếng lòng vào từng con chữ với niềm mong giữ lại những xanh tươi cuộc đời, từ đó góp thêm một giọng thơ giàu hương sắc cho văn chương Gia Lai.

BẢO TỒN CÁC KỊCH BẢN TIÊU BIỂU CỦA HÁT BỘI BÌNH ĐỊNH: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

Bảo tồn các kịch bản tiêu biểu của hát bội Bình Định: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

(GLO)- Hát bội Bình Định là một di sản văn hóa đặc sắc với nhiều vở tuồng kinh điển như: Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Ngũ hổ Bình Tây, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo (còn có tên khác là Chém cáo, Cổ miếu vãn ca) của Nguyễn Diêu, Trầm hương các, Diễn võ đình và Cổ thành… của Đào Tấn.

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Tôi không phải một dịch giả chuyên nghiệp - mào đầu vậy hoàn toàn không phải để biện hộ cho những sơ suất, sai sót và thô lậu mà bất cứ ai khi chạm tay vào việc dịch nói riêng, việc chữ nghĩa nói chung, dẫu là tay thuận hay tay ngang, đều phải đối mặt và chịu trách nhiệm.

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Để chào đón thời khắc đặc biệt của đất nước, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ cao cả với vai trò, vị thế là cơ quan ngôn luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ mà người đứng đầu hệ thống Mặt trận đã tin tưởng giao phó; kể từ tháng 7.2025, Báo Đại đoàn kết ra mắt ấn phẩm Tinh hoa Việt bộ mới.
Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

(GLO)- Nếu như Tây Bắc có “tứ đại danh đèo”: Mã Pí Lèng, Ô Quy Hồ, Pha Đin, Khau Phạ thì vùng duyên hải miền Trung lên đại ngàn Tây Nguyên cũng có “ngũ danh đèo”: An Khê, Phượng Hoàng, Khánh Lê, Ngoạn Mục, Violak.

default

Địa phận Phủ Hoài Nhơn được xác lập năm Hồng Đức thứ 2 (1471), là miền “viễn châu” khá rộng; sau hơn 550 năm, vùng đất rộng lớn lúc ban đầu được phân chia thành nhiều tỉnh thuộc Nam Trung bộ và Bắc Tây Nguyên. 
null