Bóng cha

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News

Nhà tôi nằm trên một ngã ba sông. Bạn có thể thấy thật lạ khi nhà bỗng như mọc lên giữa sông, nhưng đó là câu chuyện của hai mươi năm về trước. Thực chất đây chỉ là nhánh sông cụt sâu chưa tới 2m.

Ngày ba đi hỏi cưới mẹ, ông ngoại chỉ tay ra ngã ba sông, thách thức: “Mày dựng được căn nhà hỏi vợ ngay ngã ba sông này, tao gả liền”. Ông ngoại tôi, hay bất kỳ một ông cụ nào khác trong làng này, dĩ nhiên không hề muốn gả con gái cho ba tôi, một tay khét tiếng cờ bạc đã ăn trong máu, nhà cửa chẳng có. Lời thách ấy, thực chất là lời từ chối của ngoại.

Lời thách không tưởng ấy ai dè là động lực cho ba. Ông chọn ngay thời điểm mùa sông cạn nước nhất để đóng cọc, đổ đất, đắp đập, be bờ. Hàng chục thanh niên trai tráng trong làng, nhiều người không thân quen, nhưng khi biết chuyện vẫn nhiệt tình đánh trần giúp ba đắp đất xây nhà. Ba tôi cưới được vợ, người con gái có tiếng đảm đang, ngoan ngoãn, cũng vì thế. Ngày con gái đi lấy chồng, mặt ông ngoại tôi buồn thiu. Dù là nông dân cả đời lam lũ, nhưng ông vẫn luôn nói: “Quân tử nhất ngôn thì nông dân cũng nhất ngôn”. Ông chỉ yên tâm hơn một tẹo khi ba tôi lầm rầm khấn trước bàn thờ tổ tiên lời thề chẳng giống ai: “Con xin thề sẽ bỏ cờ bạc, chí thú làm ăn để lo cho gia đình”.

 

 


Trong suy nghĩ của mấy anh em chúng tôi, ba là người quyết đoán. Quyết đoán đến mức nhiều khi tưởng như khắc nghiệt. Đó là lý do anh em tôi ra trường, lập nghiệp ở Sài Gòn, ba ở Bình Dương, chỉ cách chưa tới 20km, nhưng chỉ những ngày lễ, tết mới về nhà. Có lần, trước giao thừa vài tiếng, mấy anh bạn công nhân quanh nhà rủ đánh bài thử vận đỏ đen. Tôi gặp vận đỏ, thắng hơn năm triệu đồng. Về đến nhà, nhìn vẻ mặt tươi rói của tôi, ông già rót nước trà gọi lại uống và nói chuyện.

- Con vừa đi đâu về vậy Linh?

- Con đi chơi.

- Chơi đâu?

Tôi lúng túng thực sự. Kể từ khi lấy vợ, ba tôi đã thề đoạn tuyệt và chưa bao giờ ủng hộ trò đỏ đen. Nhưng với tôi, đó chỉ là trò chơi may rủi. Ở khu trọ toàn công nhân nhập cư này, mỗi mùa lễ tết phải có tới 3/4 thanh niên trai tráng trong số đó ở lại “vui vầy” trên chiếu bạc.

Ba ngay lập tức nắm bắt được suy nghĩ của tôi. Ông nhìn với ánh mắt dò xét:

- Con thắng hay thua?

- Dĩ nhiên con thắng. Nhiều lắm ba, hơn năm triệu bạc.

Bất ngờ, ông vung cánh tay săn chắc, đen bóng, bổ mạnh xuống

mặt bàn:

- Đặt lên đây!

Tôi lúi húi đặt lên.

- Mày nghĩ sao vậy con? Hầu hết những thằng ngồi chung chiếu bạc với mày hôm nay, chúng nó là công nhân tỉnh lẻ, không có tiền, có được ít tiền công tiền thưởng chỉ đủ gửi về cho mẹ cho vợ, cạn kiệt không còn cả tiền tàu xe để về. Chúng nó muốn bỏ con tép bắt con tôm, có thêm chút đỉnh để có mấy ngày tết xôm tụ hơn một chút. Thế mà mày ăn hết tiền của tụi nó với vẻ mặt hớn hở thế kia? Khốn nạn!

Tôi nóng mặt khi nghe ông dằn hai từ chửi nặng nề ấy. Lần đầu tiên tôi thấy các cơ trên khuôn mặt ông rần rật rung lên, xô lại vì giận dữ.

- Bây giờ ba muốn sao?

- Đồ ngu. Ra quán trả ngay tiền cho tụi nó.

- Mọi người về hết rồi.

- Vậy mày gõ cửa từng nhà trọ mà trả.

Giao thừa năm ấy, tôi như một thằng ngu (cũng có thể có người coi là đạo đức, nhưng tôi vẫn nghĩ người ta nhìn mình giống thằng ngu hơn) khi đi khắp khu trọ, gõ cửa những người thua bạc để trả tiền cho họ. Trong lòng tôi lúc ấy tràn ngập sự cay cú với ba. Tôi chấp nhận đi không phải vì phục lời ba mà vì ánh mắt má tôi lúc đó như van nài, như cầu xin.

Cũng từ đó, chẳng thề nguyền với ai, nhưng tôi không bao giờ ngồi lại chiếu bạc. Tôi nhớ như in đêm ba mươi thắng đậm ở quê và mất sạch hứng thú đỏ đen.

* * *

Mùa hè năm ấy, ba tôi trở bệnh. Căn bệnh ung thư phổi khiến ông xuống sức nhanh chóng. Những năm cuối cùng, ông trồng quanh vườn nhà từng gốc măng cụt, sầu riêng, trước nhà là một dãy dài xoài, bưởi. Hàng xóm thắc mắc, ông cười rất hiền: “Tui trồng cho tụi cháu tui ăn, lũ trẻ trong xóm ăn”. “Cháu ông đâu?”.“Thằng Linh sắp ra trường rồi, lại cả mấy thằng em nó nữa. Mai mốt thể nào chả con đàn cháu đống. Chưa chắc tui gặp hết cháu chắt tui, nhưng chắc chắn tụi nó sẽ được ăn những trái cây tui trồng”.

Ngày ba vào bệnh viện, nằm chung phòng cấp cứu với ba có khá nhiều cụ ông, cụ bà sàn sàn cùng tuổi. Trong khi nhiều ông bà hay dành một thời gian đáng kể trong ngày ra để ngồi thở dài, ngẫm nghĩ về cái chết thì ba vẫn thường lạc quan tếu: “Cái chết có gì đâu, lúc nào tới số, trên gọi thì mình đi thôi”. Được vài hôm, lần đầu ông tỏ ra ưu tư khiến chúng tôi nhầm tưởng ông bắt đầu giống các cụ kia, sợ cái chết đang gần kề…

Ba gọi tôi ra góc sân bệnh viện. Bàn tay gầy guộc, đen sạm của ông nắm tay tôi:

- Linh, con thấy cụ già cuối phòng cấp cứu không?

- Dạ có.

Ông cụ ấy, là một nghệ nhân mộc. Ba tôi chầm chậm kể. Nhà cụ cũng có ba đứa con trai như ba. Nhưng khác với ba, lũ con ấy, mỗi đứa một phương, coi ba mẹ như người thừa trong xã hội. Hoặc có khi, chúng coi ba mẹ không còn có mặt trên đời từ lâu rồi. Cụ nằm viện gần hai tháng, nhưng chưa bao giờ thấy một đứa con nào vác mặt thăm nom. Sáng nay, bác sĩ nói nếu không có giác mạc hay cái gì mạc ấy, sẽ không thể cứu được đôi mắt ông cụ ấy nữa. Mà nghề mộc của ông cụ, mai mốt ra viện nếu không có đôi mắt thì chắc chẳng làm được gì.

Ba tôi lặng đi một lúc.

- Linh, ba tính thế này được không? Mày lên gặp giám đốc bệnh viện, hỏi xin cho ba tờ đơn xin hiến giác mạc hay cái mạc mạc gì đó, để cứu được đôi mắt ông cụ. Mai mốt tao chết cũng chẳng cần đôi mắt mang theo làm gì.

Ba tôi rành rẽ, dù ông nói “ba tính” như dò ý tôi, nhưng kỳ thực, giọng ông vang vang nói như ra lệnh. Tôi muốn nói với ba rằng, ba ơi, chi mà cực vậy, ruột gan phèo phổi ba đã không lành rồi, còn đôi mắt lành, chân tay lành…, chí ít có được hình hài lành lặn cũng cần giữ lấy để còn đi gặp ông bà chứ. Nhưng họng tôi nghẹn đắng, không cất tiếng nổi.

Mà cần gì tôi nói, mắt ba tôi long lanh nhìn trực diện như thấu tim gan tôi. Ông lắc lắc cánh tay tôi: “Nha con, giúp ba, nếu không có khi không kịp”. Như có linh tính, ngay sau khi tôi vừa hoàn tất thủ tục theo ý nguyện cuối cùng của ba thì bệnh viện trả ba về cho gia đình. Trước khi rời bệnh viện, ba tôi vẫn nhìn về phía những người bạn già với một ánh mắt nhẹ nhõm niềm vui.

Ngày chúng tôi đưa ba về lại căn nhà cũ, mảnh vườn cũ mà ba đã vắng bóng gần nửa năm nay, lứa ổi đầu tiên vừa chín tới. Ba khẽ à lên một tiếng, nói với tôi: “Con nhớ hái ổi cho lũ trẻ trong xóm, để rụng phí quá”. Vài ngày sau ba ra đi rất đỗi nhẹ nhàng.

Thú thực, trước khi ba mất, tôi chưa từng nghĩ tới chuyện có thế giới bên kia hay không. Nhưng sau đó, mỗi khi thắp nhang lên bàn thờ, tôi vẫn dọn hai đĩa trái cây, một đĩa nhỏ cúng ba, một đĩa lớn hơn để ông mời những người khác, nhất là những đứa nhỏ xung quanh. Bởi tôi biết, ông chưa bao giờ ăn miếng ngon một mình.

Và ngoài khu vườn ba tôi nâng niu từng mầm cây mà ông không đợi ngày ăn trái, tôi luôn thấy bóng ông đi về trong tiếng chim hót, lá reo…

 

KHÔI NGUYÊN THẢO
(Dẫn nguồn SGGPO)

Có thể bạn quan tâm

Thơ Nguyễn Đình Phê: Gửi lại

Thơ Nguyễn Đình Phê: Gửi lại

(GLO)- Bài thơ "Gửi lại" của Nguyễn Đình Phê là một tác phẩm đầy hoài niệm, suy tư về thời gian, tình yêu và sự chia ly. Xoay quanh cảm giác tiếc nuối, luyến lưu một mối tình đã qua, những kỷ niệm khó quên, tác giả muốn gửi lại cho người yêu hay cho chính mình?

Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn bên một bức tranh của họa sĩ Xu Man tại Bảo tàng tỉnh. Ảnh: P.D

Tranh Xu Man: Di sản tìm về

(GLO)- Từ chỗ chỉ sở hữu số lượng tác phẩm rất ít ỏi của họa sĩ Xu Man, hiện nay, Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang có một bộ sưu tập dày dặn với tổng cộng 52 bức của người họa sĩ tài danh, nhiều nhất trong hệ thống bảo tàng cả nước.

Hình dung

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Hình dung

(GLO)- Bài thơ "Hình dung" của Nguyễn Ngọc Hưng là một tác phẩm đẹp, đậm chất mộng mơ và lãng mạn. Nó thể hiện một tình yêu vĩnh cửu, dường như không thể chạm vào, nhưng vẫn mãnh liệt và đầy khắc khoải...

Tặng em nỗi nhớ ngược chiều

Thơ Từ Dạ Linh: Tặng em nỗi nhớ ngược chiều

(GLO)- "Tặng em nỗi nhớ ngược chiều" của Từ Dạ Linh mang vẻ đẹp mộc mạc, đầy hoài niệm về tuổi thơ, về những khoảnh khắc hồn nhiên mà người ta thường dễ dàng quên đi. Ẩn chứa trong đó cũng là nỗi nhớ, sự lưu luyến về tình yêu đầu đời với những xúc cảm tinh khôi, thuần khiết...

Ảnh minh họa. Nguồn : Internet

Niềm vui đọc sách

(GLO)- Từ lâu, đọc sách đã là một hoạt động được ưa thích của nhiều người, được khích lệ ở nhiều nơi vì những lợi ích mà nó mang lại. Tôi vẫn giữ thói quen đọc đều đặn mỗi ngày. Điều đó vừa cần thiết cho công việc, vừa là cách để tôi giải trí và tìm hiểu về thế giới xung quanh.

“Mùa xuân của mẹ”

“Mùa xuân của mẹ”

(GLO)- Đầu năm nay, tác giả Lê Thị Kim Sơn-Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Gia Lai ra mắt tập truyện dành cho thiếu nhi “Cổ tích trưa” (Nhà xuất bản Kim Đồng) và mới đây là tập truyện ngắn “Mùa xuân của mẹ” (Nhà xuất bản Hồng Đức). 

Thơ Đại Dương: Em đi trên đồi hoa

Thơ Đại Dương: Em đi trên đồi hoa

(GLO)- "Em đi trên đồi hoa" của tác giả Đại Dương là sự hòa quyện giữa con người và cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Những câu thơ mang sắc thái vừa lãng mạn vừa thoáng gợi lên cảm giác tiếc nuối về thời gian trôi qua, để rồi "mắt hoa tròn ngấn lệ/rưng rưng vắt qua mùa"...

Thơ Nguyễn Đình Phê: Với Krông Pa

Thơ Nguyễn Đình Phê: Với Krông Pa

(GLO)- Bài thơ "Với Krông Pa" của Nguyễn Đình Phê mang đến một cái nhìn sâu sắc về mảnh đất và con người nơi đây. Không chỉ đưa người đọc đi qua những khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, tác giả còn gợi lên những câu chuyện lịch sử và cả hành trình đổi thay sau chiến tranh của vùng đất này.

Kết nối, tôn vinh bạn đọc yêu sách

E-magazineKết nối, tôn vinh bạn đọc yêu sách

(GLO)- Sáng 17-10, Thư viện tỉnh Gia Lai tổ chức chương trình “Kết nối bạn đọc yêu sách” với sự tham gia của hàng trăm học sinh thuộc các đơn vị trường học trên địa bàn TP. Pleiku, những người làm công tác thư viện ở cơ sở và bạn đọc tích cực của thư viện năm 2024.

Thơ Lê Vi Thủy: Ngày nắng

Thơ Lê Vi Thủy: Ngày nắng

(GLO)- Bài thơ "Ngày nắng" của Lê Vi Thủy là những hình ảnh đầy sức sống và hy vọng. Tác giả khéo léo khắc họa cuộc sống khó khăn nhưng đầy nghị lực của con người, với những mầm xanh vươn lên trong khô cằn, thể hiện niềm tin vào ngày mai tốt đẹp hơn.