Về bài thơ lần đầu được công bố của Lưu Quang Vũ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Vào dịp kỷ niệm 72 năm Ngày sinh của Lưu Quang Vũ (17/4/1948-17/4/2020), bài thơ “Trò chuyện với bến sông” của cố nghệ sĩ tài năng này lần đầu tiên được công bố rộng rãi đến bạn đọc. Thi phẩm sáng tác năm 1971 này không chỉ bộc lộ tiếng lòng tha thiết yêu, nhớ, gắn bó với bến sông quê êm đềm của nhà thơ mà còn ký thác nỗi cô đơn, nỗi buồn sâu thẳm của cái tôi thi sĩ đang hoang mang trước bến đời nhiều gian truân, giông bão.
1. “Trò chuyện với bến sông” là một cuộc trò chuyện được nhân cách hóa, biến bến sông thành đối tượng trữ tình lắng nghe những lời thì thầm từ trong tâm cảm của nhà thơ. Lưu Quang Vũ quê gốc Quảng Nam nhưng sinh ra và lớn lên ở vùng đất Hạ Hòa, Phú Thọ, nơi có dòng sông Lô, sông Thao chảy qua. Những trải nghiệm thơ ấu ở bến sông đã in dấu trong tâm hồn tác giả thành một miền ký ức nguyên sơ trong trẻo vô ngần: “Ôi cái bến sông của tuổi thơ ta như một xứ xa xôi đầy bí mật/...Nơi đây ta thuộc trên bùn từng vết chân chim/Thuộc gió những mùa vịt trời đẻ trứng”.
Xúc cảm thân thương dấy lên cùng những rung động sâu thẳm của tâm hồn khi nhân vật trữ tình được trở lại với bến sông, được “nằm trên bãi”, được “áp xuống đất nồng”, được ngửi hương đất, hương bùn, cả những mùi ngai ngái đặc trưng của “cứt chim”, “cỏ dại”… Một thế giới của hoài niệm và cả thực tại cùng sống dậy, đan xen, xôn xao trong dòng trôi của niềm yêu và nhớ, day dứt và buồn đau…
Vợ chồng nhà thơ Lưu Quang Vũ-Xuân Quỳnh. Ảnh: K.N.B
Vợ chồng nhà thơ Lưu Quang Vũ-Xuân Quỳnh. Ảnh: K.N.B
2. Nhan đề và hệ thống thi ảnh trong toàn bài thơ mang hơi hướng một tác phẩm đồng thoại nhưng không phải viết cho thiếu nhi mà trước hết giãi bày một tình yêu tha thiết với bến sông của nhân vật trữ tình. Hơn hai mươi loài sinh vật bé nhỏ đã hiện diện trong những câu thơ, từ những loài cây cỏ mọc nơi bờ sông mép nước như “thài lài”, “thòm bóp”, “khóm dền cơm”, “cỏ ấu lêu đêu nụ trắng đung đưa” đến các loài sinh vật cư trú kiếm ăn ở bến sông như “gọng vó”, “kiến đen”, “vịt trời”, “sẻ đồng”, “bồ nông”, “giang”, “dẻ”, những loài bơi lội tung tăng trong nước như “con mài mại, con rô phi, con cá tép/Cùng bầy đuôi cờ bơi đi như trẩy hội thủy cung”, cả những loài chưa từng có được niềm yêu thương hay quan tâm của nhân vật trữ tình trong thời thơ ấu như “châu chấu ma”... Cuộc trò chuyện khơi gợi ký ức tuổi thơ hồn nhiên trong trẻo của nhà thơ với những tháng ngày gắn bó bến sông đến mức thuộc tên, thuộc đặc điểm hình dáng, tập quán kiếm ăn sinh sống của từng loài sinh vật: từ “con gọng vó cứ nhìn ta ngơ ngác” đến “con cuốc lủi vẫn như xưa nhút nhát”, từ “chuồn chuồn kim thân yếu đuối mỏng manh” đến “bầy đom đóm thắp đèn đi trong đêm tối”… Những câu thơ dài ngắn đan xen cùng mạch cảm xúc bồi hồi dấy lên từng đợt, quá khứ và hiện tại đồng hiện bên nhau trong cả hai mặt: bất biến và đổi thay. Cái bất biến thuộc về thế giới tự nhiên-những sinh vật bé nhỏ, hiền lành, ngơ ngác; còn cái đổi thay, éo le sao lại thuộc về con người:
“Chẳng lẽ ta đã đổi thay đến thế
...Chẳng lẽ ta không còn nhận ra tiếng chúng mày”.
Trong cuộc trò chuyện miên man ấy với bến sông, hơn một lần nhân vật trữ tình van lơn, cầu khẩn:
- “Hãy về đây với ta cả chuột đồng cả châu chấu ma”
- “Hãy về đây bạn tốt của ta ơi”
- “Hãy đến với ta, ta cần an ủi lắm…”
Thế giới sinh vật thân thương ở bến sông trở thành điểm tựa tinh thần trong tâm hồn tác giả, xoa dịu những nỗi đau buồn trong trái tim cô lẻ, vực dậy niềm yêu thương quá vãng và nâng đỡ khát vọng sống hướng về tương lai của nhà thơ.
3. Ở bề sâu, “Trò chuyện với bến sông” cũng chính là cuộc trò chuyện với lòng, với nỗi cô đơn sâu thẳm của chàng trai trẻ Lưu Quang Vũ. Rời quân ngũ năm 1971, đối diện với thực tại nhiều khó khăn, nhất là đứng trước sự đổ vỡ của cuộc hôn nhân đầu, Lưu Quang Vũ đã vô cùng buồn đau, hoang mang và bế tắc. Trong những ngày tháng cực kỳ gian khó ấy của đời mình, Lưu Quang Vũ đã sống và viết với sự chân thành cao nhất-chân thành với nỗi buồn, nỗi cô đơn và tuyệt vọng của chính mình. Trong bài thơ “Trò chuyện với bến sông”, còn lời thú nhận nào thành thực hơn: “Ta yếu đuối quá rồi/Ta chết mất thôi”.
Đó không phải là những dòng cảm xúc dấy lên bất chợt mà là sự tự nhận thức cay đắng về mình của chính nhà thơ. Đứng trước thế giới sinh vật bình yên, hiền hòa, đáng yêu ở bến sông, nhân vật trữ tình càng thấy mình mất mát, đổ vỡ và lạc lõng: “Mười bốn tuổi ta thầm yêu đắm đuối/Nhưng chẳng nói ta như chàng dế trũi/Như sau mưa rào tổ mối đã tan hoang”.
Ký ức càng đẹp đẽ lung linh thì thực tại càng tan hoang, đau khổ. Trong nỗi day dứt, dằn vặt rất đời, nhân vật trữ tình đã hoài nghi cả những tình cảm tốt đẹp của mình đối với bến sông:  “Chẳng lẽ ta không nghe được tiếng chúng mày sao/Chẳng lẽ ta đã đổi thay đến thế”. Hay như: “Chẳng lẽ ta không còn nhận ra tiếng chúng mày”.
Những câu hỏi không có lời đáp, cứ bỏ ngỏ, cứ vang vọng như một điệp khúc buồn đau, nhức nhối. Dẫu nhà thơ đã khẳng định: “Có bao giờ ta phụ chúng mày đâu” nhưng âm hưởng bất lực vẫn toát lên sau những dòng thơ tự xót xa đến cùng cực:
- “Bước vào đời bao rối ren, bao rầu rĩ”
- “Ôi bến sông nơi buồn rượi bài ca”
Dù vậy, chính sự tự nhận thức đó cũng là một sự tạ lỗi, một cách ăn năn, phản tỉnh, để nhà thơ tìm về, níu giữ và neo đậu tâm hồn vào bến sông trước những xô dạt của sóng đời.
Điều đáng quý của hồn thơ Lưu Quang Vũ là ngay trong sự dồn đuổi của nỗi buồn, cô đơn và tuyệt vọng, vẫn nghe ra niềm thiết tha sống vượt thoát cảnh ngộ: “Hỡi những tiếng rì rầm của những ngày xưa trong trắng/Hãy đến với ta, ta cần an ủi lắm/Như cuộc đời cần những chuyện thần tiên/…Đưa ta qua những bờ đầm cỏ dại/Qua tuổi đời qua cánh đồng xa ngái/Tới một mùa nắng chói chảy phì nhiêu…”.
Có lẽ trong cõi đời mênh mông, không chỉ mình Lưu Quang Vũ lấy ký ức làm điểm tựa, làm sức mạnh tinh thần để sống tiếp, sống mạnh mẽ trước hoàn cảnh gian khó, nhưng ở tuổi đôi mươi, trong sự khủng hoảng nội tâm sâu sắc, Lưu Quang Vũ đã tự cứu rỗi tâm hồn cô đơn của mình bằng tình cảm chân thành, đẹp đẽ, nồng nàn, tha thiết với bến sông theo cách đắm đuối nhất.
4. “Trò chuyện với bến sông” có ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, hài hòa giữa hệ thống thi ảnh và giọng điệu. Tình cảm chân thành, tha thiết dạt dào trong những dòng thơ tự do nối nhau nhấp nhô như từng đợt sóng. Bài thơ mang âm hưởng buồn là chủ đạo nhưng không làm người đọc chìm đắm trong sự bi quan, chán nản mà ngược lại đã đánh thức, khơi dậy những nhận thức và tình cảm đáng quý ở con người. Đó là tình yêu thiên nhiên thuần khiết trong trẻo, là tình quê thiết tha sâu lắng, là khả năng vực dậy những tin yêu khát vọng trong đời.
HÀ HOÀI PHƯƠNG

Có thể bạn quan tâm

Mở lối vào thế giới sắc màu

Mở lối vào thế giới sắc màu

(GLO)- Từ nét màu nước chấm phá, mực tàu loang trên giấy dó, đến những dòng thư pháp bay bổng hay gam màu rực rỡ của tranh sáp màu, acrylic - tất cả hòa quyện tại những lớp học vẽ. Mùa hè, những lớp học nhỏ ấy lặng lẽ góp phần vun đắp tâm hồn nghệ thuật cho nhiều bạn trẻ.

Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

Cặp đôi nghệ sĩ Nguyễn Cơ-Hồng Mai: Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

(GLO)- Cùng sinh năm rồng (1988) và lớn lên với tình yêu dành cho từng nhịp vũ đạo, Nguyễn Văn Cơ và Trần Thị Hồng Mai-hai nghệ sĩ trưởng thành từ Nhà hát Ca múa nhạc tổng hợp Đam San trở thành cặp đôi hiếm hoi của làng múa ở cao nguyên Pleiku, luôn song hành cả trên sân khấu và trong đời sống.

Ngọn đèn nhỏ bên khung cửa

Ngọn đèn nhỏ bên khung cửa

(GLO)- Chồng tôi nhận quyết định chuyển công tác vào một sáng cuối tháng Năm, khi sương vẫn còn giăng mờ trên những con dốc quen thuộc của phố núi Pleiku. Tin anh phải xuống Quy Nhơn theo diện hợp nhất 2 tỉnh không bất ngờ.

Bảo vật quốc gia ngai vua triều Nguyễn đặt tại Điện Thái Hòa, Đại Nội Huế.

Phục chế ngai vàng triều Nguyễn: Trả lại nguyên trạng năm 2015, đảm bảo đúng tinh thần bảo vật quốc gia

(GLO)-Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH-TT&DL) vừa có văn bản chính thức góp ý kế hoạch phục chế ngai vua triều Nguyễn, bảo vật quốc gia bị phá hoại hồi tháng 5 - 2025 tại điện Thái Hòa, yêu cầu phục hồi hiện trạng "gần giống nhất" so với năm 2015, thời điểm hiện vật được lập hồ sơ công nhận.

"Núi trên đất bằng"

"Núi trên đất bằng"

(GLO)- Tiến sĩ Hà Thanh Vân đã nhận xét Tiểu thuyết "Núi trên đất bằng" của Võ Đình Duy là một tác phẩm văn chương đầu tay ra mắt năm 2025, đánh dấu bước chuyển đầy bất ngờ từ một kiến trúc sư trẻ sống ở Gia Lai sang hành trình kiến tạo thế giới văn chương.

NHÀ THƠ ĐÀO AN DUYÊN: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

Nhà thơ Đào An Duyên: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

(GLO)- Với nhà thơ Đào An Duyên, đọc và viết chính là hành trình nuôi chữ. Trong hành trình ấy, chị chọn một lối đi riêng, chắt chiu xúc cảm, gửi tiếng lòng vào từng con chữ với niềm mong giữ lại những xanh tươi cuộc đời, từ đó góp thêm một giọng thơ giàu hương sắc cho văn chương Gia Lai.

BẢO TỒN CÁC KỊCH BẢN TIÊU BIỂU CỦA HÁT BỘI BÌNH ĐỊNH: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

Bảo tồn các kịch bản tiêu biểu của hát bội Bình Định: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

(GLO)- Hát bội Bình Định là một di sản văn hóa đặc sắc với nhiều vở tuồng kinh điển như: Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Ngũ hổ Bình Tây, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo (còn có tên khác là Chém cáo, Cổ miếu vãn ca) của Nguyễn Diêu, Trầm hương các, Diễn võ đình và Cổ thành… của Đào Tấn.

Hòa hợp văn hóa, cùng chung chí hướng

Hòa hợp văn hóa, cùng chung chí hướng

(GLO)- 2 tỉnh Bình Định và Gia Lai (cũ) hợp nhất là cột mốc quan trọng trong hành trình phát triển vùng Duyên hải-Tây Nguyên. Cùng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội…, văn hóa nghệ thuật cũng được công chúng hết sức quan tâm.

Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

(GLO)- Nếu như Tây Bắc có “tứ đại danh đèo”: Mã Pí Lèng, Ô Quy Hồ, Pha Đin, Khau Phạ thì vùng duyên hải miền Trung lên đại ngàn Tây Nguyên cũng có “ngũ danh đèo”: An Khê, Phượng Hoàng, Khánh Lê, Ngoạn Mục, Violak.

default

Địa phận Phủ Hoài Nhơn được xác lập năm Hồng Đức thứ 2 (1471), là miền “viễn châu” khá rộng; sau hơn 550 năm, vùng đất rộng lớn lúc ban đầu được phân chia thành nhiều tỉnh thuộc Nam Trung bộ và Bắc Tây Nguyên. 
Pleiku, miền nhớ...

Pleiku, miền nhớ...

(GLO)- Nếu tính từ dấu mốc ký Nghị định Toàn quyền Đông Dương thành lập đại lý hành chính Pleiku thuộc tỉnh Kon Tum ngày 24-5-1925, Pleiku với ý nghĩa một địa danh cả về cách đọc và cách viết đã ra đời và tồn tại đến ngày nay đã được 100 năm.

Ðại ngàn nối liền những niềm vui

Ðại ngàn nối liền những niềm vui

Trong ngôi nhà sàn dưới chân núi ở làng K8, xã Vĩnh Sơn (huyện Vĩnh Thạnh), Nghệ nhân nhân dân Ðinh Chương nở nụ cười sảng khoái, hồ hởi nói: “Bà con trong làng đang trông chờ ngày 1.7.2025, để không chỉ núi liền núi, sông liền sông mà đồng bào Bana ở hai tỉnh trước đây sẽ về chung mái nhà tỉnh Gia Lai mới”.
null