Níu giữ vị ngọt mía đường

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Lò nấu đường thủ công của ông duy nhất còn sót lại trên đất Quế Sơn, nơi từng được mệnh danh là thủ phủ mía đường một thời của Quảng Nam. Ông là Trần Đình Hai (65 tuổi), trú thôn Tân Đông Tây, xã Phú Thọ, huyện Quế Sơn, Quảng Nam.
Ông Hai bên những chảo nấu đường bằng gang còn sót lại
Ông Hai bên những chảo nấu đường bằng gang còn sót lại
Tưởng chừng nghề nấu mía đường chỉ còn trong quá khứ, nhưng ở vùng đất đồi gò này, vẫn có một người suốt hơn 40 năm qua gắn bó với nghề. Lò nấu đường thủ công của ông duy nhất còn sót lại trên đất Quế Sơn, nơi từng được mệnh danh là thủ phủ mía đường một thời của Quảng Nam. Ông là Trần Đình Hai (65 tuổi), trú thôn Tân Đông Tây, xã Phú Thọ, huyện Quế Sơn, Quảng Nam.
Giữ nghề xưa
Năm cái chảo nấu đường bằng gang nằm thẳng tắp trên bệ lò như vẫn vương mùi ngào ngạt của mía đường còn sót lại. Mới khoảng 2 tháng tắt lò nhưng thành chảo đã ánh lên màu đen sỉn của nước mía, đường và bụi bám. Gần trăm chiếc tô nhôm dùng làm khuôn đổ đường đã được chất chồng trong giỏ sắt, đặt khuất góc lò, bên cạnh chiếc gàu múc đường đặt hờ hững… Thoạt nhìn, không ai nghĩ đây là lò nấu mía đường “nổi tiếng” nhất xã Phú Thọ và Quế Sơn. Sở dĩ, nói nổi tiếng bởi chỉ cần bước chân vào địa phận xã, hỏi lò nấu đường ông Hai Phước (tên gọi thân mật của ông Trần Đình Hai) thì ai cũng biết. Lò nấu đường không những vang danh trong thôn Tân Đông Tây, xã Phú Thọ, mà còn lan xa toàn huyện Quế Sơn. Một số hộ trồng mía các xã lân cận của huyện Thăng Bình cũng rộn ràng tìm tới.  
Độ tháng 2 hàng năm, vào mùa thu hoạch mía, lò đường của ông Hai lại hoạt động thâu đêm. Kẻ chở mía đến nấu đường, con buôn chờ mua đường, trẻ em, người già ngóng trông mẻ đường non, xin nhúng vài cái bánh tráng, hoặc mua ít đường non về ăn dần. Tiếng cười nói í ới, tiếng va chạm của đường tán (đường bát) ra khuôn, xếp vào rọ tạo thanh âm lách cách, cả vùng quê xôn xao hàng tháng trời… Nhưng đó là câu chuyện của khoảng 20 năm về trước, khi mà thôn Tân Đông Tây nhà nào cũng trồng mía. Thời hoàng kim, trong thôn có 6-7 lò nấu đường, đến mùa thu hoạch, cả làng lúc nào cũng ngậy lên mùi thơm của mật mía, của đường. “Hồi đó lò tôi nấu liên tục cả tháng trời, mỗi ngày gần 30 mẻ. Chỉ riêng mía của nhà trồng đã ép gần 200 lượt. Mà ai cũng nhiều như vậy. Làm không xuể”, ông Hai nhớ lại.
Bây giờ, trong thôn còn chưa đến 10 hộ trồng mía, diện tích nhỏ lẻ, ai trồng nhiều lắm cũng chỉ 1 sào (500m2), mùa cao điểm lò đỏ lửa được 5-7 ngày là tắt. Thi thoảng, người dân một số vùng lân cận như Quế Thuận hoặc Bình Quý (Thăng Bình) cũng chở mía sang ép đường nhưng lẻ tẻ. Ông Hai cho rằng, nguyên nhân trong làng ít người còn theo nghề trồng mía là do đất đai cằn cỗi, thiếu nước, trồng mía cực, năng suất thấp, thời gian thu hoạch lâu, không lời lãi, nhất là giờ đây lớp trẻ không mặn mà với nghề này.
Dù vùng nguyên liệu mía không còn nhiều, khách hàng ít, ngày đỏ lửa cũng ngắn dần, nhưng ông Trần Đình Hai vẫn duy trì lò như muốn níu kéo cái nghề đã gắn với ký ức của làng. “Thông thường 1 mẻ mình ép 12 bó mía (trọng lượng 30kg/bó) sẽ cho ra được 20-25kg đường thành phẩm, tiền công 170.000 đồng, chủ yếu làm thêm nên cũng không lời lãi gì vì ít quá. Mình già rồi, làm được bao nhiêu thì làm, vài năm nữa ốm yếu không làm được cũng nghỉ nên cái nghề này chắc không tồn tại bao lâu nữa. Chưa kể, không ai trồng mía, lấy gì mình ép nấu đường. Thôi cứ coi như mình duy trì để cho con cháu biết cái nghề của làng”, ông Hai bộc bạch.
Những xa xôi không về
Thời huy hoàng của mía đường Quảng Nam trôi qua ước chừng cũng hơn 20 năm, giai đoạn mà các vùng Quế Sơn, Thăng Bình, Duy Xuyên đi đâu cũng bạt ngàn mía. Chỉ riêng thôn Tân Đông Tây, một lò như nhà ông Hai mỗi ngày cũng nấu gần chục tấn mía. Thương lái khắp nơi đổ về tranh nhau mua từng sọt đường bát, chất đầy, chở đi khắp nơi. Nhưng rồi, giá đường trượt dài, người trồng mía lao đao khi đường từ nơi khác đổ về với giá rẻ bèo. Nhà máy mía đường đóng cửa, bao nhiêu cánh đồng mía ở Quảng Nam bỏ hoang, hoặc chuyển sang trồng các loại cây khác. Chung số phận, những lò đường thủ công truyền thống một thời ở thôn Tân Đông Tây và nhiều vùng khác ở Quảng Nam cùng lụi tàn. “Không trách được, giá thấp, đường bán không được thì dân nghỉ làm thôi. Bây giờ đường bát có giá thì không có ai làm. Lớp trẻ bỏ đi làm ăn xa kiếm sống, chứ không thể về đây bu bám vào mấy sào mía và cái lò đường nắng nóng này”, ông Nguyễn Trường Sang - Chủ tịch UBND xã Phú Thọ tâm sự.
Theo ông Nguyễn Trường Sang, bây giờ trong số hơn 350 hộ dân của thôn, số hộ trồng mía chỉ đếm trên đầu ngón tay, còn diện tích trồng mía của xã chưa đến 3ha, chủ yếu nhỏ lẻ. “Thật ra, làm mía giờ tính ra vẫn lãi, đơn cử như với loại đường 1,5kg giá khoảng 50.000/cặp; loại 1-1,2kg giá khoảng 30.000/cặp, nhưng công việc này nặng nhọc nên dân bỏ dần, nhất là lớp trẻ họ không ham. Xã hướng cho dân chuyển đổi sang trồng các loại cây phù hợp và có thu nhập”, ông Sang nói.
Còn với ông Trần Đình Hai, người ngót nghét hơn 40 năm níu giữ lò đường thì đó như cái nghiệp mà tiền nhân để lại. Chưa kể, không làm cũng thấy nhớ cái không khí xôn xao, háo hức của kẻ ra người vào; rồi cái mùi ngọt ngào của đường bao năm đã thấm vào da thịt, cứ quặn thắt quyến luyến không chịu được. “Cả đời quen với mùi đường, mùi mía rồi, nên mỗi khi đến mùa, lòng cũng nôn nao, xốn xang không chịu được. Mặc dù một năm chỉ nấu được vài bận, từ tháng 2 đến tháng 4, mà cũng phải gom đôi bữa mới đủ vài tạ mía, nấu chừng 3 đợt là dừng chờ đủ mía mới nấu tiếp. Bây giờ đã qua mùa thu hoạch mía rồi, đành đắp lò chờ năm sau làm tiếp. Biết đâu mai mốt cây mía có giá, lớp trẻ quay về thì nghề này lại được hồi sinh”, ông Hai kỳ vọng. Âu đó cũng là tâm sự của lớp người xưa, nhớ lại cái thời huy hoàng của mía đường, tựa như giấc mơ ngọt ngào biết đâu sẽ trở thành hiện thực một ngày nào đó!
Ngọc Phúc (SGGP)

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null