Những nốt trầm nơi đại ngàn - Kỳ 2: Vòng xoáy đói nghèo - đông con - cơ cực

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Dù các nhà chức trách luôn kêu gọi, khuyên dừng lại ở hai con nhưng nhiều gia đình đồng bào dân tộc thiểu số quan niệm "đông con đông của", nên họ đẻ vẫn cứ đẻ. Chẳng lạ lẫm gì khi có những người mẹ ở bản làng đẻ liên tục 12 đứa con, đứa lớn vừa biết ngồi thì đã có em. Đẻ như “máy” khiến cuộc sống đã khổ càng thêm cơ cực; nhiều em nhỏ phải bỏ học giữa chừng.

Có bầu thì phải đẻ thôi

Trong căn nhà làm bằng ván gỗ đã xiêu vẹo, 4 đứa con của chị H’Khăn Tơ Ly (xã Cư A Mung, huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk) đang chuẩn bị bữa cơm tối. “Hôm nay, vừa bắt được ít cá ở suối nên tối gia đình có bữa cá kho khế ngon”, đứa con lớn 14 tuổi, vừa rửa cá vừa nói. Chị H’Khăn Tơ Ly lấy chồng từ năm 16 tuổi đến nay có 4 người con. Kinh tế dựa vào vài sào đất trồng hoa màu, hằng ngày ai thuê gì làm nấy. Cách đây 4 năm, chồng chị bị tai nạn gãy xương đùi. Từ đó đến nay, không thể lao động nặng, mọi công việc đều đè lên đôi vai chị. Cuộc sống khó khăn đủ bề.

Những người con, cháu của bà Y Ten

Những người con, cháu của bà Y Ten

Nhiều buôn ở xã Cư A Mung, vấn nạn tảo hôn và sinh đông con khiến các gia đình quanh quẩn trong điệp khúc đói nghèo, nhiều đứa trẻ không được đến trường. Nhận thức của người dân còn hạn chế nên thời gian qua, dù chính quyền địa phương và các ngành chức năng thường xuyên tuyên truyền về công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình song nhiều người vẫn sinh con ngoài kế hoạch.

Đặt cái gùi đựng đầy chai lọ vào một góc nhà, chị H’Nhen (buôn Kon H’ring, xã Ea Hđing, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk) tất bật lấy bó rau vừa hái được trên rẫy chuẩn bị nấu bữa tối. “Gia đình không có đất sản xuất, hằng ngày ai thuê gì làm nấy. Trên rẫy, trên đồi, có nhiều loại rau, tôi tranh thủ hái ít về nấu canh hay xào cải thiện bữa ăn”, chị H’Nhen chia sẻ.

Những đứa trẻ bồng bế em
Những đứa trẻ bồng bế em

Chị H’Nhen lấy chồng từ năm 16, đến nay, đã là mẹ của 7 đứa con, cuộc sống cả gia đình phụ thuộc vào những đồng tiền ít ỏi mà hai vợ chồng đi làm thuê. Chị nói, biết sinh đông con là khổ nhưng có bầu thì phải đẻ thôi. “Vì sao không dùng biện pháp tránh thai?” - tôi hỏi, ngại ngùng một lúc chị chia sẻ, đồng bào quan niệm đẻ phải tự nhiên giống như cây đu đủ ra hết hoa, hết quả mới thôi. Cộng tác viên dân số đến nhà vận động sử dụng các biện pháp tránh thai như uống thuốc, dùng bao cao su, đặt vòng… nhưng hầu hết bà con không áp dụng. Thấy nhiều chị em nói sử dụng mấy thứ đó đau đầu, chóng mặt, buồn nôn...

Buôn Kon H’ring, xã Ea H’Đing có gần 99% dân số là người dân tộc Xê Đăng. Một số gia đình mà tôi gặp ở đây, có nhà gần chục người con. Nhiều bà mẹ nói rằng, sinh đông con mới có nhiều người đi làm. Từ nhỏ mấy đứa trẻ đã biết lên nương rẫy làm, bố mẹ không phải nuôi.

Bỏ học giữa chừng

Dù thuộc TP Kon Tum nhưng thôn Kon Hra Chót (phường Thống Nhất) vẫn nặng tư tưởng “trời sinh voi sinh cỏ”. Cán bộ trạm Y tế phường Thống Nhất cũng đã đi mỏi chân qua những hộ dân đông con, khuyên đừng đẻ thêm nữa nhưng rồi đâu lại vào đó. Chúng tôi đến nhà bà Y Ten (57 tuổi, dân tộc Ba Na) lúc sẩm tối. Vợ chồng bà Ten bao năm qua chỉ lo cơm gạo, mà không lo được chuyện học hành, công việc cho các con. Người phụ nữ là mẹ của 12 người con (7 gái, 5 trai), hiện con lớn 32 tuổi, út 13 tuổi. Cuộc sống vất vả nên giờ gia đình bà Ten chỉ có thể nuôi 3 người con ăn học. Sau khi mấy cháu tự lo liệu việc hỏi vợ, lấy chồng, giờ đây căn nhà nhỏ của bà Ten còn 9 người. Để trang trải cho sinh hoạt hàng ngày mỗi người phải đảm nhận một việc, nhỏ cùng cha mẹ đi trồng rau, lớn hơn thì tới các hồ, đập nước rà cá.

Các em nhỏ theo cha mẹ lên rẫy

Các em nhỏ theo cha mẹ lên rẫy

Thời tiết những ngày này se lạnh nên việc rà cá được ít hơn mọi hôm, Y Rong (23 tuổi, con bà Ten) ngồi lựa những con cá to chuẩn bị đem ra chợ bán. Rong là cô gái rất thông minh, lanh lợi. Tuy vậy lên lớp 10 em phải nghỉ giữa chừng vì thương cha mẹ. Y Rong bộc bạch: “Em muốn nhường việc học cho các em. Nhà có gì ăn đó thôi anh à. Thường ngày em đi trồng rau với cha mẹ, đến mùa mưa lại lên rừng hái măng đi bán”.

Ông A Phiên - Trưởng thôn Kon Hra Chót cho biết, hiện nay thôn có 358 hộ nhưng có tới hơn 2.000 nhân khẩu. Mấy năm qua, thôn vẫn còn nhiều cặp vợ chồng sinh con thứ 3 trở lên, thậm chí đến 9-10 con; có những cặp vợ chồng chỉ mới 28-30 tuổi nhưng đã có tới 6-7 người con. Những cặp vợ chồng có đông con đều rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Theo trưởng thôn, nguyên nhân chủ yếu là do trình độ học vấn, nhận thức của một bộ phận người dân chưa cao; việc tiếp cận, nhận thức về các dịch vụ, cách sử dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình còn nhiều hạn chế.

“Nó đẻ con thứ ba rồi mình tới nhắc thì bảo lỡ kế hoạch. Có người thì bảo gia đình cần lao động, người cần có con trai, con gái. Thậm chí, có người nói liều là trời sinh voi, sinh cỏ”.Ông A Phiên chia sẻ

“Nó đẻ con thứ ba rồi mình tới nhắc thì bảo lỡ kế hoạch. Có người thì bảo gia đình cần lao động, người cần có con trai, con gái. Thậm chí, có người nói liều là trời sinh voi, sinh cỏ”, ông A Phiên chia sẻ.

Cũng vì không được học hành đến nơi, đến chốn, nên chỉ mới ngoài 30 tuổi, nhưng chị Giàng Thị Sáo (xã Cư Kbang, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk) đã lên chức bà ngoại. Chị Sáo lấy chồng từ năm 13 tuổi. Đến nay, chị đã có 8 người con. Hằng ngày hai vợ chồng phải đi làm thuê để trang trải cuộc sống gia đình. “Ngày đó, chúng tôi ưng cái bụng thì về ở với nhau chứ không tổ chức cưới xin gì. Phong tục của người Mông, con gái 14-15 tuổi chưa lấy chồng thì ế. Mỗi gia đình phải có con trai, nên phụ nữ đẻ chưa có con trai thì vẫn tiếp tục sinh thôi”, chị Sáo cho biết.

Lấy nhau khi tuổi còn quá nhỏ, vợ chồng chị H’Nhah Niê (xã Ea Sin, huyện Krông Búk) thường “Cơm không lành, canh không ngọt”. Gánh nặng cơm áo gạo tiền, khiến hai vợ chồng xung đột từ những chuyện nhỏ nhặt, vụn vặt. Chị H‘Nhah lấy chồng từ năm 14 tuổi. Theo chị, lúc đó, chỉ biết có tình cảm với nhau, cảm giác không thể sống thiếu nhau nên dọn về chung chăn gối. “Sống với nhau mới phát sinh nhiều vấn đề. Kinh tế phải nhờ vả vào bố mẹ, cuộc sống khó khăn. Có lần hai vợ chồng cãi nhau, chồng tôi uống thuốc cỏ để tử tự, may được đưa đi cấp cứu kịp thời. Bây giờ, thường ngày tôi đi làm thuê để có thêm thu nhập nuôi con”, người phụ nữ thở dài.

(Còn nữa)

Có thể bạn quan tâm

Tôi là du kích Ba Tơ...

Tôi là du kích Ba Tơ...

“Cả đời cống hiến cho cách mạng, trải qua nhiều chức vụ, nhưng điều tôi tự hào nhất là mình từng là đội viên Đội Du kích Ba Tơ”. Đó là tâm sự của Đại tá Thân Hoạt, năm nay 98 tuổi đời, 80 tuổi Đảng, người con của quê hương Quảng Ngãi.

Người của bách khoa

Người của bách khoa

Thật ra sáu mươi không chỉ là mốc quy ước để có tuổi hưu trí mà còn là tuổi của “nhi nhĩ thuận” (tai đã nghe đủ chuyện đời nên giờ là lúc biết lẽ thuận, nghịch), GS Trần Văn Nam là người nhi nhĩ thuận đã mấy năm rồi.

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

(GLO)- Hơn 30 năm cầm cương, ông Phan Xuân Định (SN 1966, thôn Đồng Bằng, xã Biển Hồ, TP. Pleiku) vẫn luôn nhớ về những ngày tháng rong ruổi cùng tiếng vó ngựa trên cao nguyên. Lão xà ích ấy vẫn âm thầm nuôi dưỡng đàn ngựa để thỏa chí tang bồng và giữ cho phố núi Pleiku nét riêng độc đáo.

Như núi, như rừng

Như núi, như rừng

Trong dòng chảy lịch sử của Kon Tum, qua biết bao thăng trầm, mỗi vùng đất nơi đây đều gắn với những chiến công oai hùng, với những con người mà cuộc đời của họ đã trở thành huyền thoại. Một trong số đó là ông Sô Lây Tăng- người vừa đi vào cõi vĩnh hằng.

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Đối với người Mông xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, lễ cúng rừng (Tết rừng) có từ khi tổ tiên ngàn đời di cư đến đây lập làng, lập bản và trở thành sắc thái văn hóa, tín ngưỡng dân gian độc đáo riêng của người Mông nơi đây.

Xóa bỏ hủ tục 'cầm đồ thuốc độc'

Xóa bỏ hủ tục 'cầm đồ thuốc độc'

Suốt thời gian dài, tệ nạn nghi kỵ “cầm đồ thuốc độc” ở miền núi Quảng Ngãi trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng, gây hoang mang, chia rẽ mối đoàn kết cộng đồng, nhiều người bị nghi ngờ có “đồ độc” phải bỏ làng vào rừng hoặc tự tử, thậm chí bị đánh đập dã man cho đến chết.

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Chục cây số đường rừng, từ cao độ 1.500 m lên 2.500 m nhưng mất hơn 5 giờ chúng tôi mới đến nơi đang lưu giữ món quà tiên của bản Hô Tra (H.Tân Uyên, Lai Châu), chính là vạt rừng trà cổ thụ búp tím đang mùa vụ.