Mùa hoa khát nước - Kỳ 1: Cây "khát" nước vẫn nở đầy hoa trắng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Những năm gần đây, khi mùa hoa cà-phê nở cũng là mùa khô hạn ở Tây Nguyên.

Tin vui là năm 2024, xuất khẩu cà-phê Việt Nam đạt 5,43 tỷ USD (dự kiến năm 2025 đạt 6 tỷ USD), tăng 33,1% so với niên vụ trước, nhờ nhu cầu toàn cầu tăng cao và giá cà-phê leo thang. Tuy nhiên, tin kém lạc quan là sản lượng cà-phê, chủ yếu là robusta, giảm do hạn hán. Điều này cho thấy thách thức lớn mà ngành cà-phê Việt Nam đang đối mặt. Dưới tác động của biến đổi khí hậu, ngành cà-phê Việt Nam đang thay đổi ra sao để thích ứng bền vững?

1a.jpg
Tháng 3, “mùa máy bơm” hút nước rầm rộ.

Những ngày tháng 3, mùa khô trùng với thời điểm hoa cà-phê trổ bông trắng cành. Đây là giai đoạn cây cần nhiều nước nhất để chuẩn bị kết trái. Người trồng cà-phê thường rơi vào hai tâm trạng trái ngược: Mong có nước tưới nhưng lại lo trời mưa làm giảm chất lượng thụ phấn của hoa.

2a.jpg
Hạn hán ảnh hưởng chất lượng cây cà-phê.

Cao nguyên “gọi” nước

“Tháng ba, mùa con ong đi lấy mật/ Mùa con voi xuống sông hút nước” - lời bài hát Tháng Ba Tây Nguyên giờ đây dường như chỉ còn là ký ức. Lên Tây Nguyên hôm nay, chẳng thấy voi hút nước, mà chỉ thấy những vòi bơm thi nhau rút nước tưới cà-phê.

Rẫy cà-phê Tây Nguyên đa phần trơ trụi, thiếu tầng cây xanh che phủ như cách trồng ở huyện Hướng Hóa (Quảng Trị). Biến đổi khí hậu khiến mùa khô kéo dài hơn, từ tháng 11 năm trước đến tận tháng 5 năm sau, thậm chí lâu hơn tùy khu vực. Ba tháng cuối mùa khô - giai đoạn ngậm nụ, trổ hoa, kết trái - là thời điểm quyết định vụ mùa năng suất hay thất thu. Từ tháng 4 đến tháng 7, khi trái non cần nước để lá căng, hạt mẩy, thì nguồn nước lại cạn kiệt triền miên.

Những rẫy đơn điệu chỉ trồng độc cây cà-phê, cảnh khô hạn càng thêm căng thẳng. Ông Nguyễn Văn An, 65 tuổi, ở thôn Tân Lập, xã Ea Kao (TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk), thở dài: “Mấy năm nay, năm nào cũng hạn. Năm nay chưa biết thế nào”. Ông kể, mùa khô 2024, cây cà-phê quắt queo dưới nắng gió, người dân đỏ mắt tìm nguồn nước bổ sung.

Vườn cà-phê nhà ông An rộng hơn 2 ha. Mùa khô năm 2024, giếng khoan cạn khô, ông phải thuê xe bồn chở nước từ xa về, mỗi bồn 5 khối giá 500.000 đồng. Nhiều hộ dân ở thôn Tân Lập cũng rơi vào cảnh tương tự. “Chúng tôi mong chính quyền hỗ trợ tìm nguồn nước và đầu tư thủy lợi để bảo đảm tưới tiêu mùa khô”, ông An kiến nghị.

Dẫu vậy, hoa cà-phê vẫn vô tư nở trắng, đón nắng vàng rực rỡ. Đời hoa nở, đời ong bay, chỉ người trồng cà-phê là thảng thốt vì nắng hạn, tức tưởi khi mưa dầm.

Tôi nhớ lời một nữ doanh nhân ngành sữa vài năm trước: “Bớt cao su, bớt cà-phê, tăng rừng nguyên sinh thì sẽ bớt hạn, bớt ngập”. Nhưng giá cà-phê vài năm nay tăng vọt, hiện hơn 130.000 đồng/kg, trong khi 20 kg lúa (giá 5.800-6.600 đồng/kg tùy loại) mới mua được 1 kg cà-phê. Giảm diện tích cà-phê giờ đây là điều khó khả thi.

Rõ ràng là “tiến thoái lưỡng nan”. Người dân vừa bất an với hậu quả quy hoạch trồng trọt mất kiểm soát, vừa gồng mình chống hạn bằng cách khoan giếng sâu, mua nước, hoặc dùng máy bơm công suất lớn để đưa nước lên cao. Anh Lê Văn Tài, 40 tuổi, ở thôn Đắk Đ’rông, xã Cư Knia (huyện Cư Jút, Đắk Nông), là một trong những người tiên phong khoan giếng sâu để bảo đảm nước tưới.

Tổng diện tích cà-phê Việt Nam khoảng 700.000 ha, chủ yếu là robusta. Tây Nguyên chiếm hơn 90% diện tích: Đắk Lắk (200.000 ha), Lâm Đồng (150.000 ha), Đắk Nông (120.000 ha), Gia Lai (80.000 ha), Kon Tum (20.000 ha). Miền bắc và Bắc Trung Bộ trồng arabica: Sơn La (15.000 ha), Điện Biên và Yên Bái (2.000-3.000 ha).

“Khoan đến mũi thứ ba mới thấy nước. Nhưng mừng chưa được bao lâu thì nước nhiễm phèn nặng”, anh Tài kể. Không nản, anh tìm cách xử lý bằng vôi: “Tôi bơm nước vào bồn, hòa vôi, để lắng, rồi xử lý thêm lần nữa cho chắc”. Nước giảm phèn đáng kể, anh mới dám tưới cho vườn cà-phê.

Tuy nhiên, không phải ai cũng cẩn thận như anh. Nhiều hộ trong vùng gặp nước nhiễm phèn nhưng vẫn tưới trực tiếp vào gốc (tưới dí), tránh lên lá. “Họ bảo tưới dí thì phèn không làm cháy lá. Nhưng tôi thấy không ổn. Nước phèn ngấm vào đất, ảnh hưởng rễ cây và chất lượng hạt”, anh Tài lo ngại.

3a.jpg
Lối thâm canh độc canh đòi hỏi nhiều nước tưới.

Nhân giống chống đỡ hạn hán

Giá cà-phê như đòn bẩy: Thấp thì cây bị chặt bỏ, cao thì người người đổ xô trồng. Dù đất xấu, sỏi đá, xa nguồn nước, nhiều người vẫn lạc quan: “Không có đất nào xấu cả”. Tuy nhiên, việc lạm dụng phân bón tổng hợp khiến nụ cà-phê bị đen, lá cháy, cây thiếu kali, thừa đạm, trở nên còi cọc. Cùng với đó, tư duy trồng trọt kiểu “hôi của” - nhanh tay, nhanh mắt - dễ dẫn đến tranh giành, đất bạc màu, cây kém chất lượng. Cũng khó khuyên bà con thâm canh bền vững khi bao mối lo cơm áo gạo tiền trước mắt.

Hiện đang là thời điểm chuẩn bị hố trồng, xuống giống cà-phê cho mùa mưa. Người mới làm rẫy thường băn khoăn: Nên chọn cà-phê thực sinh hay cà-phê ghép? Cà-phê thực sinh là gieo hạt trực tiếp, không can thiệp. Cà-phê ghép, phổ biến ở Tây Nguyên, thường gọi là “cà-phê xanh lùn ghép gốc mít” - tức dùng gốc cà-phê mít (phổ biến ở Bắc Trung Bộ) ghép với mắt cà-phê xanh lùn bằng phương pháp ghép nêm. Giống này chịu hạn tốt, kháng bệnh rỉ sắt và nấm hồng. (Giống do hai ông Phạm Quang Sơn và Phạm Xuân Trường tuyển chọn và lai tạo từ những năm 1990, được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lâm Đồng công nhận là giống cà-phê cao sản đầu dòng, cho phép lưu hành trên thị trường từ tháng 10/2006 - PV).

Sau vụ thu hoạch 2024 kém về lượng nhưng cao về giá, người trồng lại lo lắng khi nhiều rẫy xuất hiện nụ đen, lá đỏ, rễ bị nấm hồng. Họ tự hỏi: Do thiếu nước, bón phân sai, chăm sóc kém hay giống thoái hóa? Có lẽ, trồng cà-phê cần bài học dài hơi, chứ không chỉ có rẫy, có giống là có trái.

Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI) đã chọn tạo các giống robusta (TR4, TR5, TR6, TR7, TR8, TR9, TR11, TR12, TR13, TR14, TR15, TRS1), cà-phê dây, xanh lùn và 6 giống arabica (TN1, TN2, TN6, TN7, TN9, THA1), nổi bật với năng suất cao, chất lượng tốt, chịu hạn và kháng bệnh.

Theo Bài và ảnh: DUYÊN DUYỀN (NDO)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

null