Ký ức mái trường thời chiến

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Vẫn còn in trong ký ức tôi ngày khai giảng năm lớp 1. Đêm trước, cái cảm giác hồi hộp xen lẫn một nỗi lo mơ hồ khiến tôi cứ trằn trọc không yên giấc. Vừa sáng tinh mơ, chẳng đợi mẹ đánh thức, tôi đã lao ra khỏi giường rồi mặc quần áo mới. Bộ quần áo này mẹ tôi đã mua để dành cả mấy tháng trước. Hàng mậu dịch, áo thì rộng thùng thình, quần dài phải xắn lên mấy lai mới khỏi quét đất. “Diện” thêm đôi dép cao su dày cộp cắt từ lốp ô tô cũ, chụp lên đầu chiếc mũ rơm rộng vành, tôi mải miết tới trường.
Còn sớm quá, lũ bạn chưa đứa nào tới cả. Tôi bần thần đứng nhìn ngôi trường của mình. Gọi là trường nhưng thực tế chỉ là một căn nhà nửa nổi nửa chìm, ba phía là những dãy hầm chữ A áp vào thay vách; trần nhà cũng đắp rơm nhào với đất để chống mảnh bom. Mùi ẩm mốc, mùi đất xộc lên khiến tôi mới dợm bước vào đã phải quay lui. Để có ngôi trường này, mỗi phụ huynh học sinh vào lớp 1 phải đóng 7 công lao động, 2 cây tre, 1 cây gỗ và 1 bó rơm. Không đi rừng được, mẹ tôi đành phải chặt cây bồ quân đang mùa hoa để nộp. Tôi thơ thẩn một lúc thì lũ bạn lục tục đến. Cùng vào lớp 1 với nhau mà đứa thì cao vượt hẳn cái đầu, có đứa con gái còn ra dáng đàn chị với sắp nhỏ chúng tôi nữa. Tất cả chúng tôi đều cùng làng, từng học với nhau lớp vỡ lòng, vậy mà hôm nay gặp nhau sao đứa nào cũng nhìn nhau tỏ vẻ rụt rè như người xa lạ. Rồi cô giáo đến. Cô giáo cũng là người làng. Thường ngày, chúng tôi vẫn gặp cô, lúc thì gánh nước, lúc gánh phân ra đồng giúp mẹ. Gặp cô, đứa có họ hàng thì chào theo thứ bậc, đứa không thì “chào chị”. Chẳng ai chào bằng “cô” cả. “Thầy nhà, bà làng”, ở quê vẫn vậy. Thế nhưng, từ hôm nay thì đứa nào cũng hiểu mọi điều đã khác. Cô đã thực sự là cô giáo của chúng tôi với quyền năng đúng nghĩa…
Dẫn chúng tôi vào lớp, cô sắp xếp chỗ ngồi. Bé ngồi trước, lớn ngồi sau. Những đứa bị ngồi cạnh con gái xấu hổ, làu bàu trong miệng rồi dịch ra một góc bàn. Cô giáo lấy trong xách ra tấm ảnh Bác Hồ lồng trong khung cùng tấm ni lông gắn lên bảng, trên đó đã cắt sẵn dòng chữ bằng giấy trắng “Lễ khai giảng năm học 1966-1967”; cắm nắm hoa dại vào lọ rồi để lên chiếc bàn con trước bục giảng. Có thế thôi mà tôi cảm thấy không khí lớp học bỗng nghiêm trang hẳn lên. Vừa lúc thầy Hiệu trưởng đến. Tất cả đứng lên chào cờ. Tất nhiên là chỉ đứng lên theo nghi thức bởi chúng tôi đâu đã biết hát Quốc ca. Rồi thầy Hiệu trưởng phát biểu dặn dò chúng tôi, đại loại phải đi học chuyên cần, nghe lời cô giáo, không được đánh nhau… Trái với sự tưởng tượng của tôi, lễ khai giảng diễn ra chỉ giản đơn có thế.
Mãi cho đến năm cuối cấp I, chúng tôi mới không còn phải ngồi học trong những căn nhà hầm tối tăm, ẩm ướt. Tuy nhiên, chiến tranh lúc này còn tiếp diễn ác liệt. Việc xây dựng hầm hào để tránh máy bay Mỹ vẫn phải tiếp tục. Bấy giờ, chúng tôi cũng đã có sức. Trẻ con nông thôn vốn quen với công việc nặng nhọc từ bé nên việc đào giao thông hào, gánh đất đắp hầm cũng là điều bình thường. Hơn thế, chúng tôi còn tự vào rừng chặt cây về để làm hầm, làm trường. Còn nhớ năm lớp 7, tôi và thằng bạn tên là Phấu được cô giáo giao nộp một cây gỗ dài 4 m, đường kính 20 cm. Hai đứa vào rừng chọn cây chay là thứ gỗ nhẹ nhất, ngả xuống bóc vỏ phơi nắng cho khô. Rồi oằn cả lưng, hì hụi suốt 1 ngày, chúng tôi mới khiêng được nó ra thuyền để chở về. Trong những ngôi trường mái rạ, vách đất thấp tè ấy, vào những ngày mùa đông, chúng tôi phải căng mắt, cúi sát xuống bàn mới thấy chữ. Mà giấy viết, chủ yếu là thứ giấy nứa vàng khè nhưng vẫn thiếu. Có dạo ngặt quá, chúng tôi phải lấy vở cũ, luộc nước vôi cho chữ mờ đi để làm giấy nháp. Mực thì phải dùng thuốc nhuộm vải hòa ra để dùng. Phấn viết, chúng tôi phải qua núi moi đất sét trắng mang về, nặn thành viên phơi khô.
Chẳng riêng học sinh, các thầy cô bấy giờ cũng trải qua những tháng năm gian khổ như thế. Nhà ở là những túp lều mái rạ, vách đất thấp tè, sặc mùi ẩm mốc. Giáo án phải soạn dưới ánh đèn dầu leo lét, che ba phía để đề phòng máy bay. Gạo ăn tiêu chuẩn mỗi tháng chỉ 12,5 kg mà phải độn khoai, mì tới 30%. Để lấy được chút lương thực ít ỏi ấy, các thầy cô phải đi bộ 4-5 km gánh về. Suốt một quãng đời học sinh, tôi chưa bao giờ thấy các cô mặc tấm áo dài, các thầy mặc comple. Khó khăn, gian khổ là thế nhưng lòng tận tâm của các thầy cô với học trò thì có lẽ “một đi không trở lại”. Tôi không sao quên được hình ảnh thầy chủ nhiệm lớp tôi, giữa thời đạn bom ác liệt như thế vẫn hàng đêm mò mẫm trên những con đường làng mấp mô, trơn trượt đi kiểm tra chúng tôi học nhóm, phụ đạo cho chúng tôi…
Đôi khi tôi vẫn nghĩ, nền giáo dục Việt Nam thời chiến có lẽ là nền giáo dục kỳ diệu nhất thế giới. Không kỳ diệu sao khi giữa chiến tranh ác liệt, bom đạn mù trời; giữa những khó khăn tột cùng là thế thì thế hệ chúng tôi cũng không ai phải thất học. Không những thế, việc dạy, việc học vẫn diễn ra nghiêm túc. Ai học kém vẫn cứ phải ở lại lớp; qua mỗi kỳ thi, ai rớt vẫn cứ rớt, không có chuyện xin xỏ, chạy điểm bao giờ. Tất nhiên, không thể nói là hoàn hảo (làm sao có thể hoàn hảo trong hoàn cảnh chiến tranh) nhưng cho đến bây giờ, người ta vẫn phải nhớ về nền giáo dục thời ấy: một nền giáo dục đã cho con trẻ những ngày thật sự tuổi thơ; một nền giáo dục mà trò hết mực kính trọng thầy, thầy hết lòng vì học trò. Nhờ những mái trường như thế mà đất nước mới có một thế hệ anh hùng trên tuyến đầu đánh giặc cũng như xây dựng hậu phương. Thế hệ ấy chính là nền móng cho những ngôi trường hôm nay-những ngôi trường mà trong mơ họ cũng chưa từng tưởng đến.  
NGỌC TẤN

Có thể bạn quan tâm

Gương mặt thơ, Võ Kim Ngân

Gương mặt thơ: Võ Kim Ngân

(GLO)- Võ Kim Ngân làm thơ từ hồi còn là sinh viên ở Đại học Tổng hợp Huế, dù sau này khi ra trường, chị là một nhà báo cứng cựa, vừa viết vừa quản lý một văn phòng đại diện ở Đà Nẵng; lúc về hưu thì tham gia dạy báo chí cho một trường đại học...
Thơ Vân Phi: Va vào xưa cũ, vỡ trôi…

Thơ Vân Phi: Va vào xưa cũ, vỡ trôi…

(GLO)- "Va vào xưa cũ, vỡ trôi..." của tác giả Vân Phi thể hiện phong cách và tâm trạng rất đặc trưng của thơ Việt Nam hiện đại. Bài thơ miêu tả một buổi chiều trong phố cũ, nơi kỷ niệm và nỗi buồn hòa quyện với nhau. Ở đó, tình cảm và thời gian dường như vẫn còn đọng lại đầy sâu lắng...
An Khê thu cảm

An Khê thu cảm

(GLO)- An Khê là vùng đất giàu trầm tích văn hóa-lịch sử và sở hữu nhiều cảnh quan đẹp nằm ở phía Đông tỉnh Gia Lai. Từ lâu, nơi đây đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho sự ra đời của nhiều thi phẩm đặc sắc. "An Khê thu cảm" của tác giả Nguyễn Đình Phê là một trong số đó.

Thơ Lữ Hồng: Thanh âm

Thơ Lữ Hồng: Thanh âm

(GLO)- Mỗi khắc mỗi giờ của đời sống này đều cho ta những thanh âm quý giá. Tháng 9 lại đến như “ngụ ngôn mùa thu”, khiến cho ngay cả “một giọt vỡ thời gian” mà tác giả Lữ Hồng nhủ thầm được hóa thân cũng dịu dàng đến lạ.
Thơ Vân Phi: Nghe trong đồng đất nảy mầm

Thơ Vân Phi: Nghe trong đồng đất nảy mầm

(GLO)- Những hình ảnh giản dị thân thương như hạt thóc, sân vườn, gà con, cây bồ ngót... được tác giả Vân Phi tái hiện qua nhịp thơ 6/8 theo mạch cảm xúc tự nhiên. Đọc thơ, những câu chuyện dung dị mà sâu lắng về quê hương cứ làm ta muốn "ngồi lại", "nghe quê san sớt đôi lời tri âm".
Còn mãi tình yêu hóa đá ngàn năm

Còn mãi tình yêu hóa đá ngàn năm

(GLO)- Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đã ra đi mãi mãi ở tuổi hai mươi tại chiến trường Quảng Trị năm 1972. Chỉ còn nước mắt chảy giữa dòng tên, ru một trái tim vẫn còn đang hát, ru một con người không bao giờ mất và một tình yêu đẹp như trăng rằm...

Thơ Phạm Đức Long: Những mùa lá hình tim

Thơ Phạm Đức Long: Những mùa lá hình tim

(GLO)- Ngày đất nước hòa bình, những mầm xanh vươn lên mạnh mẽ. Lá cây mang hình trái tim như sự tri ân muôn đời đến những người con đất Việt đã ngã xuống vì độc lập, tự do. Mỗi chiếc lá xanh là một lời nhắc nhở, nguyện ước về một cuộc sống bình yên, ấm no, mãi mãi trường tồn...
Thơ Hà Hoài Phương: Cảm thu

Thơ Hà Hoài Phương: Cảm thu

(GLO)- Ai đó từng nói: “Thơ là thu của lòng người, thu là thơ của trời đất”. Vẻ đẹp của đất trời lúc sang thu luôn làm xao xuyến những tâm hồn lãng mạn. Bài thơ Cảm thu của tác giả Hà Hoài Phương có lẽ đã được ra đời trong sự cộng hưởng ấy...
Khai mạc hội nghị tập huấn lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật năm 2024

Khai mạc hội nghị tập huấn lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật năm 2024

(GLO)- Sáng 27-8, tại TP. Quy Nhơn (tỉnh Bình Định), Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương khai mạc hội nghị tập huấn với chủ đề "Công tác lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ sau 50 năm đất nước thống nhất, đổi mới, phát triển: Thực tiễn và những vấn đề cần quan tâm".
Gương mặt thơ: Hồ Đăng Thanh Ngọc

Gương mặt thơ: Hồ Đăng Thanh Ngọc

(GLO)- Ông hiện là Chủ tịch Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên-Huế, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông viết nhiều thể loại và đều có thành tựu. Nhưng cái cuối cùng đọng lại, làm nên Hồ Đăng Thanh Ngọc và khẳng định tên tuổi ông trên văn đàn, chính là thơ...
U80 vẫn mê đọc sách

U80 vẫn mê đọc sách

(GLO)- Do là chỗ thân tình nên tôi vẫn gọi người phụ nữ U80 Nguyễn Thị Hồng Hợp (trú tại tổ 3, phường Diên Hồng, TP. Pleiku) là chị. Mặc dù tuổi đã cao nhưng chị vẫn giữ cái tính mê đọc sách từ ngày còn son trẻ.
Văn hóa người làm báo

Văn hóa người làm báo

Cuộc trò chuyện ngắn ngủi với một đồng chí nguyên là cán bộ lãnh đạo tỉnh (đã nghỉ hưu) sáng nay về ứng xử của một phóng viên trẻ công tác ở một tờ báo bạn làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Rõ ràng là vẫn cần nỗ lực hơn nữa trong xây dựng văn hóa người làm báo.
Thơ Bút Biển: Hoài niệm

Thơ Bút Biển: Hoài niệm

(GLO)- Hoài niệm không đơn thuần là xúc cảm thoáng qua về quá khứ mà có sự hòa lẫn nhiều cung bậc. Trong "Hoài niệm" của mình, nhà thơ Bút Biển đã nhớ về những mùa thu cũ với bao cảm xúc ngây ngô thuở thiếu thời. Để rồi, "chợt tỉnh gặp mình trong thực tại/Mỉm cười nhìn vạt nắng ngát hương".