Ký ức An Khê - Kỳ cuối: Phác thảo chân dung người “một nhà”

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Dù là chiến trường rất ác liệt, nhưng đội ngũ cán bộ, nhân viên làm việc trong cơ quan Huyện ủy và các đội công tác cơ sở ở An Khê lại không nhiều, trừ bên lực lượng vũ trang. Vì thế, chúng tôi vô cùng thân thiện, gần gũi, coi nhau như anh chị em một nhà.

Như anh em một nhà

Tôi nhớ, có lúc cơ quan chỉ có chưa đầy 50 người, mỗi người có thể làm đôi ba việc hoặc 2-3 người làm một việc. Chúng tôi có thể là giao liên, công vụ, anh chị nuôi, hậu cần mang cõng lương thực thực phẩm, may vá, văn thư đánh máy, ghi tin chậm, in truyền đơn, viết khẩu hiệu. Đêm về, tập trung sinh hoạt chi đoàn, tập hát, tập đàn, thổi sáo.

Thương yêu nhất là các chị, các cô chân yếu tay mềm mà chẳng ngại gian lao, chẳng sợ hy sinh. Trong rừng sâu cũng như ngoài tiền tuyến, các chị vẫn sánh vai cùng đồng đội, đảm nhận bất cứ công việc gì được cấp trên giao cho. Cô Nguyễn Thị Sương là người lớn tuổi nhất trong số chị em cơ quan. Nói là lớn nhất, chứ những năm 70 của thế kỷ trước, cô cũng chỉ trên dưới tuổi 30. Cô là vợ của bác Nguyễn Hữu Hà (sau ngày giải phóng, ông là Đại tá-Hiệu trưởng Trường Quân sự Khu 5). Khi chồng tập kết, cô bị chính quyền Diệm ở địa phương o ép, khủng bố, đe dọa đủ điều. Vì vậy, lãnh đạo huyện An Khê đã quyết định đưa cô ra hoạt động bất hợp pháp.

Cô thường chia sẻ cho các chị em về cách tự chăm sóc bản thân, chuyện về tình yêu đôi lứa, chuyện đối nhân xử thế... Mỗi chuyến công tác về, thế nào bọn nhân viên trẻ chúng tôi cũng được cô mua cho, khi thì bánh xà phòng Cô Ba, lúc chiếc khăn tay, lọ dầu Thanh Lạc... Khi rảnh rỗi, cô lại giặt ủi, khâu vá giúp chúng tôi bao việc... không phải của đàn ông, con trai.

Thị xã An Khê nhìn từ trên cao. Ảnh: Quang Tấn

Thị xã An Khê nhìn từ trên cao. Ảnh: Quang Tấn

Một hôm, có lẽ là mùa rẫy năm 1971, cả cơ quan đi phát rẫy dưới chân núi Hố Đak. Vì chúng tôi đông, có trang bị vũ khí, còn toán thám báo Mỹ thì chỉ có mấy tên, nhắm không thể địch lại chúng tôi, nên khi phát hiện, chúng gọi một bầy trực thăng từ An Khê đến, sau một hồi quần đảo, phóng rocket, ném lựu đạn, xả đại liên từ trên máy bay, rồi chúng đổ bộ lính xuống, bao vây chúng tôi trong một khoảnh rừng già. Cô Sương bị lạc đồng đội.

Cô kể, bọn lính Mỹ đi tới thì cô đi lùi, cách nhau chỉ vài chục mét, may thay phía sau lưng cô có nhiều hốc đá, cô đã ẩn mình vào một trong những hốc đá đó. Nhờ vậy mà cô đã an toàn, cho đến khi Mỹ rút lui, mọi người tìm đưa về. Là tôi chỉ vắn tắt câu chuyện vậy, còn khi nghe cô Sương “tường thuật” sự việc thì cả cơ quan chỉ có bò lăn ra cười. Tính cô luôn vui vẻ, hòa nhã với mọi người, lại có chút “tiếu lâm”, chẳng khi nào thấy cô buồn. Sau ngày giải phóng ít lâu, những căn bệnh của rừng trỗi dậy, cô đã không qua khỏi. Đã 2 lần tôi về Song An (thị xã An Khê), quê hương của cô thắp nén nhang, cầu mong cô nơi xa an lòng, chúng tôi những đứa cháu ngày xưa vẫn thương nhớ về cô một thời khói đạn.

Chị Trần Thị Tài, người con gái xứ An Nhơn, dáng người thấp đậm, mái tóc thường xuyên chải rẽ ngôi giữa, dài và đen nhánh. Là chị nuôi của cơ quan, chị siêng năng, nhanh nhẹn. Chúng tôi thường xuyên có bữa cơm ngon, canh ngọt, dù chỉ là mì, bắp độn, canh, mắm là những thứ của rừng, của suối chị kiếm được. Mỗi khi rảnh việc, mấy anh em trẻ chúng tôi giúp chị đi cõng mì, bắp từ kho, từ rẫy về, lấy củi, gùi nước.

Còn một người anh, mà tôi coi anh như người thầy, người ruột thịt trong gia đình, anh cũng coi tôi như đứa em nhỏ, luôn chỉ bảo, động viên; tình cảm của anh em chúng tôi cho đến bây giờ vẫn vậy. Đó là anh Lê Thanh Hiển, đồng hương với chị Trần Thị Tài. Anh thông hiểu nhiều điều, rảnh việc hay vào những đêm yên tĩnh giữa rừng sâu căn cứ, anh kể cho tôi nghe bao chuyện nhà chuyện đời, chuyện công tác. Anh dạy tôi đánh máy chữ, viết chữ ngược trên bảng đá in truyền đơn, viết khẩu hiệu trên vải để các đội công tác giăng ngoài ấp chiến lược. Anh là người cùng với anh Nguyễn Đình Thọ đã giáo dục, giúp đỡ và giới thiệu tôi vào Đảng.

Nhớ một hôm đã rất khuya, một cơn mưa rừng ập đến, ào ào trút nước xuống mái lá lán chúng tôi, vì sợ nước mưa làm ướt giấy tờ, máy móc trên các bàn làm việc, tôi gọi anh lấy ni lông ủ hộ, trong mơ màng giấc ngủ, anh bảo... trời mưa có đất chịu, em ngủ đi. Chú Đặng Ngọc Xuân nằm cạnh nghe thấy thế, đã “phê bình” anh, chuyện nhỏ xíu thế mà làm tôi ân hận, nhớ đời.

Vẹn nghĩa trọn tình

Những người trong cuộc như chúng tôi thời đó, ai cũng biết, ở An Khê, những năm 1971-1972, đối phương ra sức đôn quân, bắt lính, tăng cường tuần tra, vây ráp vùng ngoại vi thị trấn An Khê, bên trong các ấp, các khu đông dân, chúng ráo riết “bình định”, tình hình căng thẳng, ác liệt, hoạt động của các đội công tác và lực lượng vũ trang ta trở nên khó khăn, phong trào quần chúng lắng xuống. Vì vậy, lại có một số anh chị biểu hiện tư tưởng dao động, sợ hy sinh gian khổ, ngại đi công tác ra phía trước, tự thương để về hậu cứ. Một trong số đó, có anh L, anh T. Anh Nguyễn Hữu Nam, với kinh nghiệm của một thầy thuốc từng lăn lộn trên nhiều chiến trường, cứu chữa hàng trăm thương binh, nhìn vết thương anh thừa biết là không phải vết đạn bắn từ đối phương. Đã chiều muộn, một anh từ đội công tác trở về, vết thương trên tay băng bó vết máu thấm đã khô. Sau khi xem xét vết thương cho đồng đội, không nói gì, anh Nam đã đề nghị cho chuyển lên tuyến trên chữa trị.

Chuyện gì đến đã đến, nghe lời đề nghị của anh Nam, Bí thư Hồ Ngọc Năm bực mình lắm. Nhưng lúc đó, anh Nam vẫn im lặng. Cho đến khuya, anh Nam nói chuyện với tôi về vết thương của anh T. Biết là anh Nam bị oan, tôi tìm cách thưa với Bí thư Hồ Ngọc Năm câu chuyện của anh Nam. Nghe xong, ông trầm ngâm một lúc, rồi bảo tôi xuống nói chị Tài bắt một con gà làm thịt nấu cháo. Đã khá khuya, nhưng nghe vậy tôi vẫn phải chấp hành, nghĩ bụng có lẽ việc nhiều, Bí thư mệt mỏi muốn bồi dưỡng. Tôi đem cháo lên lán của Bí thư thì ông lại bảo, xuống mời thầy thuốc Nam lên đây. Thì ra, đó là lời xin lỗi của chú Năm đối với anh Nam.

Anh Nam vốn ít nói, thường nhường trên, nhịn dưới, tận tụy với chức năng người thầy thuốc, luôn nghĩ cách chữa trị bệnh tật cho đồng đội thật hiệu quả trong điều kiện thiếu thốn thuốc men, dụng cụ y tế. Còn chú Năm, tính tình nóng như... lửa đốt. Nhưng nhiều đêm mắc võng ngủ bên ông, dường như ông ít ngủ, tôi nghe ông khóc thầm, đó là mỗi khi có tin báo về có người hy sinh, bị thương, bị bắt...

Bây giờ những lát cắt “chân dung” ấy, người còn người mất, nhưng với chúng tôi-những người trong cuộc, bao ký ức về một thời khói lửa, sống chết bên nhau, vui buồn có nhau, chẳng bao giờ phai nhòa.

Có thể bạn quan tâm

Anh hùng không đợi tuổi

Anh hùng không đợi tuổi

Những ngày đầu xuân năm mới, tôi gặp anh hùng LLVTND Ngô Tùng Chinh trong ngôi nhà vườn rợp bóng cây xanh của ông tại phường Long Phước (TP Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh). Ông đang sống một cuộc đời hiền hòa, giản dị bên cạnh không gian trưng bày hiện vật chiến tranh của riêng mình.

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Những người mẹ đặc biệt

Những người mẹ đặc biệt

Lặng lẽ tồn tại suốt gần 60 năm qua, cô nhi viện Phú Hòa (xã Tịnh Ấn Tây, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) được nhiều người gọi với cái tên “ngôi nhà đặc biệt”, bởi nơi đây có những phụ nữ hy sinh cả đời để trở thành mẹ của hàng trăm đứa trẻ mồ côi, khuyết tật, bị bỏ rơi...

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Cán bộ Công an phường Phù Đổng (TP. Pleiku) hướng dẫn nhân viên Khách sạn Khánh Linh đăng ký lưu trú qua phần mềm dịch vụ công trực tuyến. Ảnh: T.T

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ 1: Khi hệ thống chính trị cùng vào cuộc

(GLO)- Ngày 6-1-2022, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 06/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030” (Đề án 06).

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…