Khoảng lặng cồng chiêng - Kỳ 2: Khi không còn không gian nguyên bản

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên hàm chứa nhiều giá trị đặc sắc với thang âm cổ truyền, không gian buôn làng, cộng đồng dân cư, địa điểm (nhà rông, nhà dài, bến nước), bối cảnh thực hành (lễ hội, tập tục)…

Tuy nhiên, cùng với quá trình đô thị hóa và sự giao thoa văn hóa mạnh mẽ, cồng chiêng đang phải thích nghi với thực tại mới, dẫn đến sự biến đổi cả về giá trị văn hóa lẫn ý nghĩa tâm linh.

2.jpg
Biểu diễn cồng chiêng trên sân khấu tại lễ hội voi Buôn Đôn (Đắk Lắk).

Cồng chiêng “đón” khách

Mười năm trước, ấn tượng của chúng tôi khi lần đầu đến làng cổ Plei Ơp (phường Hoa Lư, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai) là ngôi nhà rông bề thế với kiến trúc đặc trưng. Đây là làng văn hóa du lịch đầu tiên của tỉnh được quy hoạch, đầu tư phát triển du lịch cộng đồng. Tuy nhiên, thời điểm đó, hầu hết bà con trong làng không còn ở nhà sàn mà đã thay thế bằng nhà bê-tông kiên cố.

Năm nay, trở lại Pleiku, làng Plei Ơp vẫn là cái tên nổi bật nhất mà người dân giới thiệu cho du khách phương xa. Nhà rông đầu làng vẫn sừng sững, bao quanh là vườn tượng gỗ dân gian sinh động với chàng dũng sĩ, mẹ bồng con... Song nhà cửa hiện đại còn san sát hơn, nhà sàn đã vắng bóng hẳn trong làng. Ngay cả cây nêu phía trước nhà rông cũng được tạo hình bằng kim loại chứ không phải chất liệu truyền thống. Lý giải điều này không khó, nguyên liệu gỗ để dựng nhà sàn, cây nêu giờ đây đã trở nên khan hiếm, đắt đỏ. Chỉ còn một vài dãy nhà sàn được sử dụng làm không gian ẩm thực và homestay, các bộ cồng chiêng treo trên vách như đồ trang trí. Du khách đến làng thường vào dịp cuối tuần, có thể được nghe, xem biểu diễn cồng chiêng, nếu muốn có thể đề nghị nghệ nhân hướng dẫn thao tác cơ bản, tham gia hòa âm…

Một ngày khác gần đây, trong ngôi nhà dài Ê Đê ở buôn Akô Dhông (phường Tân Lợi, TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk), chúng tôi gặp đoàn khách đến từ Hải Phòng đầy hào hứng khi lần đầu tiên trải nghiệm đêm cồng chiêng Tây Nguyên. Chủ nhà là ông Y Pin Bing (thường gọi là Ama Pi) dẫn chuyện duyên dáng và nhiệt tình trong gần 2 giờ đồng hồ diễn ra chương trình văn nghệ, giao lưu. Đội cồng chiêng và múa hát huy động cả nam giới và phụ nữ, người già và trẻ em trong buôn tham gia, mặc trang phục dân tộc Ê Đê, trình diễn các tiết mục cồng chiêng, đàn T’rưng, tái hiện một số nghi lễ đón khách theo truyền thống gia đình người Ê Đê… Kết thúc một màn múa xoang, chị H’Tít Aliô - thành viên đội văn nghệ khẳng định: “Khi có khách quan tâm đặt lịch xem biểu diễn cồng chiêng, dù đoàn đông hay chỉ một người, chúng tôi đều trân trọng và thể hiện hết mình”.

Đầu tháng 3 vừa qua, Lễ hội Cà-phê Buôn Ma Thuột lần thứ 9 diễn ra với hàng chục sự kiện nhiều quy mô trải rộng trên địa bàn tỉnh, trong đó tất nhiên không thể thiếu các dàn cồng chiêng của người Ê Đê, M’Nông, Gia Rai… Cồng chiêng xưa kia thường do đàn ông (trung niên trở lên) thực hành, chỉ được đánh trong những dịp trọng đại của gia đình và cộng đồng, gắn với không gian buôn làng, thậm chí trước khi mang chiêng ra tấu chủ nhân còn cần phải cúng báo cáo với thần linh. Còn hiện nay, không khó bắt gặp cồng chiêng lên sân khấu hoành tráng, cồng chiêng xuống phố diễu hành…

Đó là thực trạng của không gian văn hóa cồng chiêng tại một số thành phố vùng Tây Nguyên thời gian qua. Các sinh hoạt truyền thống tồn tại với hình thức biểu diễn theo yêu cầu, chứ không còn là thành tố văn hóa nội tại của cộng đồng các dân tộc. Nghệ nhân 81 tuổi Y Dhok Niê của buôn Ko Siêr (phường Tân Lập, TP Buôn Ma Thuột) chia sẻ với nỗi hoài niệm: “Trước đây mỗi dịp trong buôn có đám tang, đám cưới hay nghi lễ đều đánh cồng chiêng cho mọi người biết mà tụ họp, giúp đỡ. Giờ ngay cả lễ mừng lúa mới cũng không còn nữa, nhà nào nhà nấy im ắng khi thu hoạch lúa về. Cũng bởi ít trồng lúa rồi, buôn mình nằm trong thành phố rồi, nhà cửa sin sít lấy đâu ra không gian thiêng để gọi thần linh nữa…”.

Và không thể không kể đến sự phát triển của công nghệ cùng các thiết bị điện tử với đa dạng nguồn thông tin và giải trí cũng góp phần thay đổi nhận thức và thói quen của người dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên. Y Jung (sinh năm 1990) ở làng Plei Đôn (phường Quang Trung, TP Kon Tum, tỉnh Kon Tum) là một người trẻ có thói quen đều đặn chia sẻ lên mạng xã hội các hình ảnh, clip về cuộc sống, cảnh đẹp, nghề truyền thống, âm nhạc… của người Ba Na. Chị cho biết hiện nay vẫn được nghe, tiếp xúc với dàn cồng chiêng làng mình khá thường xuyên, nhưng hiếm khi có dịp nghe chơi chiêng cổ. Phổ biến hơn cả là âm nhạc cồng chiêng được biến tấu, chơi theo tiết tấu các bài hát hiện đại trong các lễ hội, tại các khu du lịch cộng đồng và được giới trẻ cũng như du khách đón nhận vì “tạo không khí vui vẻ và bắt đúng xu hướng”. Khi hỏi thêm về phong tục, nghi lễ xưa còn tồn tại trong cộng đồng, chị nói rằng hiện nay chỉ còn đám ma là người ta đánh chiêng thôi.

Buôn trong phố Akô Dhông (TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk).
Buôn trong phố Akô Dhông (TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk).

Suy giảm không gian di sản

Sự biến đổi của cả không gian cư trú (làng) lẫn không gian sinh kế (rừng, nương, rẫy) diễn ra nhanh chóng trên diện rộng tại hầu khắp các địa phương Tây Nguyên những năm qua đã tác động đến không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên như một xu thế tất yếu không thể đảo ngược. Rất nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo khoa học, tọa đàm, diễn đàn... trong hai thập kỷ qua đã bàn luận về vấn đề này.

Nhà nghiên cứu văn hóa Trương Bi (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đắk Lắk) từng chỉ ra thực trạng: “Không gian rừng bị mất. Không gian bến nước không còn được sử dụng. Không gian nương rẫy đã nhường chỗ cho cây công nghiệp… và đất rẫy đã biến thành khu công nghiệp, trang trại; nhà sàn truyền thống đã thay dần bằng nhà xây kiên cố, không còn chỗ cho việc tổ chức các nghi lễ - lễ hội truyền thống. Mất không gian này sẽ đến mất không gian nghi lễ - lễ hội, không gian văn hóa cồng chiêng, không gian văn hóa sử thi, không gian thổ cẩm, không gian ẩm thực…”.

Hiện tượng đô thị hóa, bê-tông hóa có thể quan sát được trong thực tế từ những “làng trong phố” như Plei Ơp (TP Pleiku, Gia Lai) hay “buôn trong phố” Ako Dhông (TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk), khi không gian buôn làng cổ bị bao bọc và thay thế dần bởi nhà cửa hiện đại, phố phường kiểu mới. Theo nhận định của GS, TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, về mặt thời gian, có thể nói quá trình hiện đại hóa đã diễn ra hàng vài thập kỷ trước, ngay từ khi Pháp đặt chân và thiết lập hệ thống quản lý của họ đến mảnh đất Tây Nguyên. Tuy nhiên, giống như ở nhiều vùng miền núi khác, mốc phát triển có tác động mạnh mẽ đến các vấn đề bảo tồn văn hóa dân gian có lẽ phải kể đến đầu những năm 1980. Các khía cạnh khác nhau của sự “hiện đại hóa” này đã tạo ra cơ hội và thách thức đối với bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của các tộc người ở Tây Nguyên.

Theo các chuyên gia, thêm một yếu tố phát sinh trong quá trình dịch chuyển kinh tế-xã hội vùng Tây Nguyên cũng ảnh hưởng đến không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, đó là sự du nhập của các tín ngưỡng, tôn giáo mới. Các giá trị văn hóa, đạo đức nhân văn tôn giáo có những tác động tích cực, làm phong phú đời sống văn hóa ở Tây Nguyên, song cũng biến đổi các mối quan hệ và nhiều thiết chế xã hội truyền thống.

Một vấn đề khác đặt ra là hiện tượng “làm mới” di sản Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên theo chiều hướng sân khấu hóa, như tại các liên hoan quần chúng hoặc phục vụ khách du lịch, nhưng thiếu những nghiên cứu, chọn lọc hoặc thuyết minh để khán giả có thể hiểu được. Khi người nghe, người xem chỉ tiếp cận với phần “vỏ” có vẻ hào nhoáng, rộn ràng nhưng không biết bài chiêng đó tên gì, không phân biệt được của dân tộc nào… thì việc lưu giữ, phát huy giá trị cồng chiêng vẫn chỉ là hình thức, không bảo vệ được phần “hồn cốt” thiêng liêng, thậm chí còn làm méo mó và sai lệch giá trị chân chính của di sản.

(Còn nữa)

Theo Bài và ảnh: KHIẾU LIÊN, HẠNH THẮNG (NDĐT)

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

(GLO)- Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Ia Dơk (tỉnh Gia Lai) là căn cứ cách mạng quan trọng, đồng thời cũng là nơi hứng chịu nhiều đau thương, mất mát. Những cánh đồng từng bị bom cày xới, những mái nhà bình yên hóa tro tàn, bao số phận người dân vô tội bị giặc sát hại.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

null