"Cô tiên" giữa làng phong

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Ngày làng phong hình thành, chị tự nguyện chăm sóc những người bệnh từ tắm rửa, giặt giũ, nấu ăn. Gần 30 năm sau, chị vẫn thế, vẫn cưu mang dạy từng nét chữ cho con cháu của họ. Những người bệnh phong bị hắt hủi, nằm co ro giữa nghĩa địa chờ chết, chị “cướp” lại từ tay thần chết, cứu sống. Giữa làng phong do bố chị thành lập, tình yêu đôi lứa đơm hoa kết trái. Trải qua 3 thế hệ, 70 bệnh nhân phong vẫn không thể sống thiếu chị. Họ nói thế và luôn nói thế.

Trỗi dậy mầm sống

Chị có tên rất đẹp - Siu Jeh. Năm nay 60 tuổi tròn, người dân tộc Jrai. Lúc tôi đến thăm, chị đang vận bộ đồ làm cỏ cà phê, cũ sờn, rách lỗ chỗ. Chị cười đôn hậu, ấm áp. Câu chuyện về làng phong như một cuốn phim được chị quay chậm, về thời điểm năm 1985.

 

Chị Siu Jeh (trái) thăm bà Rơ Chăm Cir - người bị bệnh phong.
Chị Siu Jeh (trái) thăm bà Rơ Chăm Cir - người bị bệnh phong.

Chị kể, bố chị, ông Siu Prõi - bị bệnh phong, dân làng không xua đuổi nhưng hắt hủi, kỳ thị. Trên làng, dưới xã cũng 10 người bị bệnh như bố. Với lòng tự trọng cao, ông Siu Prõi đứng ra tập hợp những người phong, dắt díu vợ con đến nơi “tách biệt” để ở. Năm căn, bảy căn... rồi cứ thế mọc lên mười căn nhà. Những người bệnh phong kéo đến ngày một nhiều, đùm bọc, nương tựa mà sống giữa bao định kiến nghiệt ngã cuộc đời. Làng không tên, chỉ biết người đời gọi là: “Làng phong”.

Căn bệnh hành hạ, từng mảng thịt người bệnh bong tróc, lở loét, mất dần tứ chi. Giữa muôn trùng sóng gió, chị Siu Jeh xuất hiện. Cô thiếu nữ tận tình tắm rửa cho họ, lau chùi, băng bó. Những người cụt chân, cụt tay hạn chế sinh hoạt, chị gánh nước, chặt củi, nấu ăn. Thương cảm bệnh nhân, chị lang thang qua từng thôn, bản xin áo quần về phân phát. Những chiếc rách quá, chị xé ra, tự tay xâu kim vá lại lành lặn cho người phong. Trẻ nhỏ thì chị cắt tóc, tắm gội.

Việc giúp đỡ cũng không hề dễ dàng, người phong mặc cảm, tự xa lánh. Ban đầu, họ không cho đến gần, chị phải thủ thỉ động viên, cùng ăn, cùng mặc để xóa tan lời đàm tiếu “bệnh lây lan”. Bố bệnh, chị chăm sao thì chăm họ như thế. Trong làng hàn gắn giữa người bệnh với người lành đã khó, giờ vượt ra làng bên, khó khăn càng gấp bội.

Đến nỗi chị kể rằng, con cháu của bệnh nhân phong, hễ đi học, người ta tìm cách né tránh vì sợ lây. Làng này đuổi, làng kia xua với những từ ngữ miệt thị: “Con làng phong không được đến đây học”. Không học hành, không vui chơi với đám bạn, ánh mắt những đứa trẻ đượm buồn, Siu Jeh không cầm lòng. Miên man chị nghĩ, không biết chữ, cộng, trừ, nhân, chia cũng không thì làm sao trụ lại với đời. Thế là chị quây mấy tấm bạt 5-6 mét, tập trung các em từ 5-18 tuổi học chung một lớp “xóa mù chữ”. Đó là năm 1989. Tiếng đọc ê a tròn vành xóa tan nốt trầm của làng. Lớp học có lúc đông đến 70 em, chị vô tình trở thành “cô giáo” từ đó.

Chị kể thêm: “Một năm sau, có nhóm người Hội Chữ thập đỏ, thấy thương quá, xây cho một căn nhà với 2 phòng học. Chính chị là người đặt tên cho điểm học này là “Điểm trường tình thương””. Chị - cô giáo không lương, dạy chữ chỉ với tình yêu đám trẻ.

Không ai giúp đỡ, để làng phong tồn tại, chị Siu Jeh ngày ngày theo chân những thanh niên lên núi, gùi củ rừng về ăn. Chị không biết đó là củ gì, chỉ biết mọi người thường gọi là “củ khoai”. Gùi trên núi về, lột vỏ, đem ra suối ngâm đủ 6 ngày cho sạch mủ, đem phơi, giã ra rồi nấu lên ăn. Năm này qua năm khác, làng phong sống nhờ củ khoai này. Cũng lạ lắm, làng phong từ ngày có chị, mọi người bỗng cởi mở, có niềm tin vào cuộc sống. Người trong làng dần dần gắn kết, mọi người cùng hỗ trợ, đùm bọc, che chở cho nhau. Bóng tối chết chóc phủ xuống làng phong đã bị xua tan, mà chính chị là người khởi nguồn. Những mầm sống trỗi dậy, biệt hiệu làng phong biến mất. Bây giờ làng có tên hẳn hoi: Bluk Blui, xã Ia Ka, huyện Chư Pah, Gia Lai.

Khát khao “làm người”

Chị dẫn tôi qua khu nhà người bệnh phong nặng. Dãy nhà 6 phòng, tường gạch. Hỏi, chị nói, biết hoàn cảnh đáng thương của người phong, các nhóm thiện nguyện xây lên, thay cho nhà tranh tre, nứa lá trước đó. Lúc tôi đến, bà Rơ Chăm Cir đang nấu một nồi canh ăn thay cơm, bởi nhà hết gạo. Bệnh phong “ăn” mất của bà 10 ngón chân, đau hơn, bà phát bệnh lúc tuổi thiếu nữ. Ở chung dân làng không đồng ý, bà bị bỏ rơi ở khu nhà ma (nghĩa địa). Chị Siu Jeh hồi tưởng: “Người làng muốn Cir chết đi, để khỏi lây lan căn bệnh lạ. Chỉ có bố mẹ là thương con, đem cơm ra nhà ma cho ăn, họ cũng không dám đến gần mà để thức ăn cách đó khá xa, rồi lấy ống gỗ hoặc tre ra gõ, báo hiệu có thức ăn để Cir đến lấy”. Cô thôn nữ sống chung với ruồi, nhặng đếm ngày chờ chết, ấy thế mà Siu Jeh biết được, ra nghĩa địa đem về chăm sóc, nuôi nấng.

Bàn tay bị bệnh phong ăn đứt mấy ngón, dẫu vậy không làm phai đi tính tài hoa của Rơ Chăm C’Mlo. Ông có biệt tài đan gùi rất nhanh, rất đẹp. Đôi bàn tay thiếu ngón mà thoăn thoắt đến lạ từ chẻ lạt, uốn tre, luồn dây để đan nên chiếc gùi. Gùi làm xong, ông phát cho người phong sử dụng, nhiều quá thì đem bán lấy tiền. C’Mlo bị câm, không nói được, dẫu vậy ông vẫn là “nghệ nhân” của làng Bluk Blui.

Bố mẹ qua đời, chị Rơ Chăm Pyoi bị con cháu bỏ rơi. Thân thể lở loét, tướm máu, thế là bị xua đuổi. Biết có làng phong - Bluk Blui bây giờ - Pyoi theo bản năng tìm đến cầu cứu sự sống. Dân làng đùm bọc, lại được Siu Jeh vỗ về, an ủi, Rơ Chăm Pyoi nhanh chóng hòa nhập. Chị vui chơi, ca hát, làm nương, làm rẫy như người bình thường. Tình yêu nảy nở khi Pyoi gặp gỡ với Krong - một người phong - đang cư trú tại làng. Đêm trăng hẹn hò, xuống suối hát khúc tình ca, tình yêu đơm hoa, người con ra đời là kết quả của một mối tình đẹp.

Từ ngày vào làng, chị Mich như được sinh ra lần hai. Tâm tư chị kể: “Thân con gái bị dân làng xua đuổi, tủi thân vô cùng. Người đồng bào dân tộc thiểu số sống kiểu cộng đồng, mình bị bệnh tắm chung họ không cho, ngồi chung cũng không được. Đi đến đâu, họ đuổi đến đó”. Rồi chị nói tiếp: “Siu Jeh biết được hoàn cảnh, đi bộ hàng chục cây số đưa mình về đây. Bây giờ được Nhà nước quan tâm cấp thuốc cho uống, phát tiền trợ cấp để mua gạo, không sợ đói, sợ chết như ngày trước”.

70 người bệnh phong tại làng Bluk Blui, đa số bị con cháu bỏ rơi. “Sau khi điều trị dứt bệnh, trên dưới 20 người được người thân, con cháu nhận về, tái hòa nhập cộng đồng”, chị Siu Jeh hớn hở. Chị nói, những người còn lại, dù đã hết bệnh, họ cũng mong muốn quay về quê cũ lắm. Nhưng đó đã là chuyện quá khứ. Bây giờ, con cháu làng phong đi qua làng bên hỏi vợ, cưới chồng. Họ trồng tiêu, trồng cà phê, chăn nuôi... dân số ngày càng mở rộng.

Số liệu từ Trưởng thôn A.Ruên, làng giờ có 145 hộ với trên 500 nhân khẩu. Cuộc sống trù phú, êm ấp. Ngày tôi đến thăm, giữa tháng 10, con đường vào làng bát ngát màu xanh cây cà phê, những căn nhà mái đỏ mọc lên kiên cố, san sát. Cuộc sống vẫn còn đấy khó khăn, nhưng ai cũng đã đủ ăn, đủ mặc. Lái buôn từ làng bên, đánh xe vào tận làng trao đổi, cảnh mua bán diễn ra nhộn nhịp.

Dẫn tôi ra điểm trường Làng Bluk Blui thuộc Trường Tiểu học số 2 Ia Ka - đây chính là “Điểm trường tình thương” cũ năm xưa, 40 em nhỏ mầm non, con cháu bệnh phong đang say sưa học chữ. Siu Phưl - em gái ruột của Siu Jeh - chính là cô giáo tại đây. Tâm sự mới biết, vì thương tụi nhỏ, Siu Phưl dạy học miễn phí cho các em, sau, chính quyền huyện, xã quan tâm, đưa chị đi đào tạo chuyên ngành, tuyển thẳng vào nghề giáo. Sát bên là dãy phòng từ lớp 1-5, các em lên lớp 6 sẽ ra trung tâm xã học. Bộc bạch với tôi, chị Siu Jeh nói: “Đã 3 thế hệ lớn lên ở làng phong này. Sự kỳ thị đã chính thức lùi vào dĩ vãng. Bây giờ người ta bàn chuyện làm ăn, buôn bán, làm nương làm rẫy... làm giàu”.

Cuộc sống của làng phong có được hiện giờ, cũng có phần nhờ sự quan tâm của xã Ia Ka và huyện Chư Pah (Gia Lai). Chủ tịch UBND xã Ia Ka - Ksor Sum - chia sẻ: “Nhận lương hằng tháng, mỗi cán bộ bỏ vào thùng từ thiện dăm, bảy chục ngàn, gom lại mua gạo, mắm muối đem vào làng phong cho bà con”. Bày tỏ về tấm lòng chị Siu Jeh, anh ngắn gọn: “Gần 30 năm chăm sóc, chị nấu cơm, nấu cháo, gom nhặt người bệnh về nuôi nấng, chăm sóc, dạy chữ cho con cháu họ. Tìm được người thứ hai rất hiếm”.

Biết rằng, nếu hỏi sẽ rất “vô duyên” nhưng vẫn thích hỏi: “Cơ duyên nào thúc đẩy chị dành cả tuổi xuân để gắn bó với người bệnh phong?”. Chị cười, đáp: “Tình người với nhau cả, em ạ”.

Tôi rời khỏi làng phong, bóng chị xa dần, nhỏ nhoi, liêu xiêu đi giữa con đường, nhưng với tôi, với dân làng Bluk Blui thì tấm lòng của chị cao cả, lớn lao nhường nào.

Đình Văn/laodong

Có thể bạn quan tâm

Bát nháo 'cò' vùng biên

Bát nháo 'cò' vùng biên

Tình trạng 'cò' đưa người qua lại biên giới Campuchia diễn ra bát nháo ở khu vực gần cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh) và Mỹ Quý Tây (Long An) tiềm ẩn nguy cơ về an ninh trật tự, tội phạm trốn truy nã, cờ bạc, buôn lậu, ma túy...

Sơn thếp cho chén vỡ hóa lành

Sơn thếp cho chén vỡ hóa lành

Bên đống bát đĩa vỡ toang, mọi người hì hụi chọn ra những cái tan nát nhất để thực hành một kỹ thuật thú vị trong nghệ thuật sơn ta, đó là thếp vàng - bạc, mục đích hàn gắn lại sản phẩm, che đi vết vỡ bằng kỹ thuật sơn thếp, dưới sự hướng dẫn của họa sĩ Nguyễn Xuân Lục.

Cán bộ an ninh gặp gỡ, tuyên truyền người dân không nghe kẻ xấu lôi kéo vượt biên. Ảnh: T.T

Buôn làng rộng lòng bao dung - Kỳ cuối: Thức tỉnh những người lầm lỡ

(GLO)-Giữa tháng 3-2024, Thiếu tướng Rah Lan Lâm-Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh cùng đoàn công tác của Bộ Công an có chuyến sang Thái Lan để gặp gỡ những người dân tộc thiểu số Việt Nam đang cư trú bất hợp pháp ở 2 địa điểm thuộc huyện Bang Yai, tỉnh Nonthaburi.

Hậu phương người lính - điều chưa kể

Hậu phương người lính - điều chưa kể

LTS: Chấp nhận dấn thân và hy sinh để bảo vệ đất nước, những người lính Quân đội nhân dân Việt Nam luôn nêu cao ý chí quyết tâm gìn giữ, tỏa sáng hình ảnh anh “Bộ đội Cụ Hồ” nơi tuyến đầu gian khó. Song ít ai biết rằng, phía sau họ là hy sinh thầm lặng, những nỗi niềm canh cánh của người hậu phương.

'Bảo mẫu' đàn chim trời

'Bảo mẫu' đàn chim trời

Dựng trang trại trồng tre, nuôi vịt nhưng thấy đàn chim trời hàng nghìn con về trú ngụ, làm tổ, ông Nguyễn Mạnh Cường (Hà Tĩnh) đã dừng việc chăn nuôi, nhường vườn cây xanh tốt cho đàn chim trú ngụ, làm tổ.