Có một cuộc sống âm thầm lặng lẽ!

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Cuộc đời của những thầy cô ấy cũng sôi động với hỉ nộ ái ố và cả sự thăng trầm. Nhưng trên hết, họ vẫn hết sức yêu nghề, bám nghề.
Cách đây vài tháng, khuya rồi, Facebook của tôi có tin nhắn: "Thầy ơi, thầy hay làm từ thiện, trường em nắng quá, thầy xin cho trường em cái dù được không". Tôi rất không thích cái từ "từ thiện", nó vẫn là cái gì đấy vẻ như ban ơn.

Một tiết học của trường tiểu học trên vùng biên giới tỉnh Gia Lai
Một tiết học của trường tiểu học trên vùng biên giới tỉnh Gia Lai
Yêu nghề và học trò
Tôi thì chỉ hay đi xin rồi cho một số nơi khó khăn, như cái trại điên của vợ chồng Phước Hạt mà tôi từng viết trên Báo Người Lao Động, rồi cái mái ấm hàng trăm trẻ mồ côi ở huyện Chư Sê, dăm bảy trường học ở vùng sâu vùng xa, thì hoàn toàn không phải là từ thiện. Nghĩ thế chứ tôi vẫn nhắn lại, em là ai, sao lại gọi tôi là thầy, trường em ở đâu?
Thì ra cô này là giáo viên dạy nhạc ở một trường cách TP Pleiku (tỉnh Gia Lai) nơi tôi ở khoảng 50 km. Có thời gian tôi là giáo viên thỉnh giảng cho một trường văn hóa nghệ thuật, học sinh thì đông, thời gian thì lâu, làm sao nhớ?
Thế rồi tôi cũng đi xin cho trường cô này được cái dù lớn, trị giá 25 triệu đồng, một ít sách, đồ dùng học tập, quần áo. Một anh bạn nghe lời tôi, huy động được gần cả trăm triệu đồng nữa cho trường sắm bàn ghế mới, sửa phòng học. Cô này đi dạy cách trường 27 km, một ngày đi - về vừa đủ 54 km.
Rồi từ cô này kéo theo một cô khác, cũng là giáo viên nhưng... hiệu phó.
Cô hiệu phó này, tên Hương, nhà cũng đang ở thị trấn Ia Kha, huyện Ia Grai với cô Hoa - cô giáo mà tôi kể trên, nhưng dạy xa hơn gần chục cây số nữa về phía biên giới. Từ nhà vào trường Cù Chính Lan nơi cô Hương làm việc, ở xã Ia Chía, là 33 km, cả đi và về gần 70 km mỗi ngày. Cả hai cô này đều yêu nghề và học trò. Có yêu thì mới ngoài việc ngày nào cũng trên xe máy gần trăm cây số đi dạy như thế, lại còn lùng sục tìm kiếm, quan hệ và thông qua các mối quan hệ để xin từ sách vở tới đồ dùng học tập, từ bảng tới bàn ghế, từ quần áo tới xe đạp cho học trò và cho trường. Hỏi có nguyện vọng chuyển về trường gần nhà không, các cô đều bảo thế thì còn gì bằng nhưng biết làm sao được nếu ai cũng muốn chuyển. Thực ra thì tôi biết, cái vụ chuyển trường trong ngành giáo dục này nó cũng có nhiều chuyện khó nói lắm.
Nhìn một vòng, thấy muốn khóc
Tôi bỏ ra một ngày lên trường ấy.
Lâu lắm mới lội lại những con đường bazan đất đỏ thứ thiệt, bởi nói gì thì nói, giờ đường bê-tông, đường nhựa đã tới tận làng. Vả nữa, lâu nay tôi thường đi vào mùa khô, giờ đang giữa mùa mưa.
Tất cả các phòng học, phòng làm việc của trường đều phải để dép giày ở ngoài hè, thậm chí dưới sân, dù trước đấy tôi rất ghét việc phải bỏ giày dép ở ngoài khi bước vào nhà riêng, huống gì lại là công sở, trường học. Nhưng tới đây mới thấy mình là kẻ lạc hậu. Không thế, đất đỏ nó ngập tới cửa sổ.

 
Có dãy nhà lưu trú cho giáo viên nhưng đa phần chiều là về nhà. Trưa tất nhiên là ở lại. Xã biên giới chả có quán xá gì. Dân nghèo, giáo viên thì vất vả, tới khẩu trang cũng phải bỏ tiền mua trang bị cho học sinh để chúng tới lớp. Các thứ khác, nếu cần thì cũng toàn giáo viên đóng tiền hoặc đi xin. Như cô Hoa mới khoe: "Em xin được 3 thùng sơn quét lại lớp rồi".

Là thư viện trong trường học nhưng những chỗ này không hề thấy sách
Là thư viện trong trường học nhưng những chỗ này không hề thấy sách
Có rất nhiều khu vực gắn với cái thư viện, như cầu thang thư viện, thư viện lớp, nhưng toàn trống không, kể cả cái phòng thư viện chính. Nếu muốn có thì giáo viên phải bỏ tiền mua. Lại nhớ ở trường của cô Hoa, tôi từng chụp cái ảnh thông báo treo ở cửa phòng thư viện danh sách ủng hộ tiền mua sách cho thư viện, đa phần là giáo viên, ai ít năm chục, nhiều thì hai trăm ngàn đồng.
Ở đây có phòng tin học, máy tính mới nhất là đời 1992. Thầy hiệu trưởng bảo nếu biết các anh lên, em cho bật máy từ hôm qua, may ra giờ nó khởi động xong. Trường đang muốn dạy tiếng Anh cho học sinh nhưng chưa biết như thế nào? Nếu có thể, các anh giúp cho trường dăm cái máy tính thì tốt quá, quán nét thải ra cũng tốt.
Đi quanh trường nhìn một vòng thì thấy muốn khóc. Cứ thế này rồi thì sao mà dạy, mà học? Nghe nói trường sắp được xây một khu đa năng, mấy thầy cô giáo bảo thôi khỏi cần khu ấy, cho chúng em thêm lớp, thêm bàn ghế. Giờ chi đoàn trường đi xin bàn ghế cũ về kỳ cạch sửa lại cho các em học.
Các thầy cô cố giữ tôi ở lại ăn trưa, hết sức nhiệt tình nhưng tôi cương quyết: Nếu có quán, ra đấy, tôi mời. Còn giờ tự nấu thì tha cho tôi nhé, tôi về. Nguyên tắc của tôi là đi tặng quà, dẫu một cuốn sách hay cả xe tải quần áo giày dép thì cũng không bao giờ lên sân khấu có phông trang trí chào mừng, tay trao quà nhưng mắt nhìn ống kính, rồi ăn uống các loại.
Tôi cũng quen một ông hiệu trưởng (ông này cương quyết không cho nhắc tên), vài năm nữa thì về hưu, bám trụ ở mấy xã biên giới từ ngày ra trường. Và vì thế nhà cũng không ở thành phố, không ở thị trấn mà ở một xã cũng khá xa và sâu, cách trường vài chục cây số, đi về hằng ngày. Có thể nói cả đời dạy học, ông này chỉ dịch chuyển loanh quanh mấy xã vùng sâu vùng xa của tỉnh Gia Lai, nên nếu có danh hiệu hay huy hiệu gì đấy của tỉnh thì theo tôi, nên trao trước cho những thầy như ông này, và những cô Hương, cô Hoa cùng nhiều thầy cô lặng lẽ khác nữa.
Mà huyện Ia Grai thì những trường như tôi vừa kể không phải là cá biệt.

Một tiết lên lớp của giáo viên vùng biên giới Gia Lai
Một tiết lên lớp của giáo viên vùng biên giới Gia Lai
Đi mới thấy thương
Sẵn đà, hôm sau tôi đi tuyến Chư Sê, Phú Thiện là về phía Đông Nam của tỉnh Gia Lai.
Cái Trường Tiểu học Nguyễn Công Trứ đóng trên xã H’Bông (huyện Chư Sê) giờ phóng ôtô hoặc xe máy một lèo là tới, chỉ cách thị trấn huyện tầm 20 km. Đa phần giáo viên trường này có nhà ở tại thị trấn, hằng ngày phóng xe đi dạy, đều hồ hởi nói giờ được thế là quá tốt rồi ạ, xưa đi khổ lắm. Cô hiệu phó từ một trường khác chuyển về, bảo giờ về đây như về thiên đường, bởi cái trường cũ, mỗi lần đi về là một cực hình. Hè là dịp để đại tu xe nhưng chỉ vài tháng là lại xộc xệ, nặng nhất là xích và lốp. Đường cực xấu và gập ghềnh.
Nhưng cái xã H’bông này lại rất thiếu nước bởi nó nguyên là một mỏ đá, chỉ đào xuống khoảng 2 gang tay là gặp đá nên đa phần trồng cây ngắn hạn chứ không có cây lớn. Xưa từng có rừng khộp nhưng giờ đã hết, dẫu rừng khộp như ai cũng biết là rừng nghèo, một ít cây dầu loe ngoe còn lại là cỏ tranh. Học sinh rất nghèo, nên vừa rồi triển khai học online thì các thầy cô lại phải đi giao bài. Tức là in cái bài online ấy ra giấy, phóng xe tới từng nhà học sinh, giảng cho các em, xong rồi hẹn ngày thu bài, quay lại thu bài này giao bài mới. Hỏi học thế có chất lượng không, cười cười bảo thì để các cháu nó khỏi quên chữ.

Trẻ em vùng biên giới Gia Lai tập đánh vần
Trẻ em vùng biên giới Gia Lai tập đánh vần
Xuống huyện Ia Pa, vào trường dân tộc nội trú ở ngay thị trấn. Đây là huyện mới tách ra từ huyện Ayun Pa. Huyện Ayun Pa từng là một tỉnh, rồi là huyện lớn, sau tách ra thành 2 huyện để Ayun Pa lên thị xã, nên gọi là thị trấn huyện chứ vẫn rất lơ thơ người và nhà. Cô hiệu trưởng nhà ở TP Pleiku nhưng giờ thành dân Ia Pa vì đã kịp lấy chồng ở đây. Thôi yên tâm phục vụ huyện nhé, tôi động viên. Cô có nhã ý mời tôi đi uống nước, hỏi uống ở đâu, bảo cách đây 5 km. Tức là xưa có một xã tương đối phát triển, người Kinh vùng Hà Nam Ninh cũ vào kinh tế mới, có quán xá, đông dân, là trung tâm của vùng này, nhưng khi tách huyện người ta chọn một nơi lạc hậu nhất để làm thị trấn, chắc để kéo vùng ấy lên, vì thế khách đến huyện công tác, nếu cần ăn hoặc ở lại đa phần là chạy ra thị xã Ayun Pa hoặc tới cái xã phát triển kia.
Tất nhiên là tôi từ chối, cho không hết, san sẻ không hết, ai lại ăn uống của các em? Thì lần này cũng xuống tặng trường sách do tôi xin của 2 bạn từ TP HCM và Hà Nội, của tôi một ít nữa, mua cho các cháu mấy quả bóng nữa, cho các cháu đá giờ ra chơi.
Đi mới thấy thương, mới thấy những gì mình đã trải qua ở cuộc đời này chả nghĩa lý gì? Phía sau cuộc sống đang ầm ào chảy kia là một cuộc sống nữa, âm thầm lặng lẽ. Và cuộc đời của những thầy cô ấy, hàng chục ngàn thầy cô chứ không ít, cũng sôi động với tất cả những hỉ nộ ái ố, với cả những thăng trầm. Nhưng trên hết, họ vẫn hết sức yêu nghề, bám nghề, dù khi nói chuyện, có những điều khiến tôi quặn lại, lúc rưng rưng, khi phẫn nộ, và không thể đưa lên mặt báo. Là các thầy cô ấy dặn thế, để họ yên ổn dạy học, và để môi trường giáo dục nó vẫn mãi cứ cao sang. 
Bây giờ từ thị trấn Ia Kha lên biên giới đã có đường nhựa khá ngon, chứ không như tầm hơn chục năm trước, lên đấy là cả cực hình. Đường đèo dốc hết sức nguy hiểm, mùa khô bụi ngập bánh xe, mùa mưa nhão nhoẹt cũng lút bánh. Các thầy cô giáo ở đây, người cũ thì hơn hai chục năm, mới cũng hơn chục năm.
Bài và ảnh: Văn Công Hùng (NLĐO)

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Những người mẹ đặc biệt

Những người mẹ đặc biệt

Lặng lẽ tồn tại suốt gần 60 năm qua, cô nhi viện Phú Hòa (xã Tịnh Ấn Tây, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) được nhiều người gọi với cái tên “ngôi nhà đặc biệt”, bởi nơi đây có những phụ nữ hy sinh cả đời để trở thành mẹ của hàng trăm đứa trẻ mồ côi, khuyết tật, bị bỏ rơi...

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Cán bộ Công an phường Phù Đổng (TP. Pleiku) hướng dẫn nhân viên Khách sạn Khánh Linh đăng ký lưu trú qua phần mềm dịch vụ công trực tuyến. Ảnh: T.T

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ 1: Khi hệ thống chính trị cùng vào cuộc

(GLO)- Ngày 6-1-2022, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 06/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030” (Đề án 06).

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…