Cô giáo “cắm làng” thời gian khó

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
(GLO)- Một ngày mưa tầm tã, cô giáo Thủy cùng đồng nghiệp Nguyễn Thị Hòa tay xách chiếc hòm gỗ đựng quần áo, tay xách dép lò dò trên lối mòn trơn nhẫy, hun hút cỏ đuôi chồn tìm về làng Lút, xã Ia Phí mở lớp. Bấy giờ, Ia Phí thuộc huyện Chư Păh cũ, được coi là xã vùng sâu, dân số chủ yếu là người dân tộc Jrai.

Những ngày học sư phạm cứ háo hức chờ ngày ra trường bao nhiêu thì bây giờ lại thấy nản bấy nhiêu. Cả làng chỉ loi thoi vài ngôi nhà tôn vách nứa, còn lại là tranh tre ọp ẹp, xác xơ vì gió đánh. Trường học cũng là một căn nhà tranh vách nứa trông còn thảm hại hơn nhà dân. Chỗ ở cho giáo viên không có, phải ở nhờ nhà Chủ tịch UBND xã. Chưa quen phong tục, 2 cô thấy gì cũng sợ. Đến bữa gia đình mời cơm cũng chẳng dám ăn; sáng, tối chỉ ăn bắp nướng trừ bữa. Sau buổi lên lớp ngắn ngủi, 2 cô chẳng biết làm gì. Không dám mong có tờ báo, cuốn sách để xem, chỉ mong cho ngày chóng hết để cuối tuần được gặp đồng nghiệp, được nói… tiếng phổ thông. Buồn quá, có lúc 2 cô bàn nhau hay là bỏ nghề về quê sống. Nhưng bỏ nghề thì lại nghĩ tiếc công học hành. Vậy là lại tự động viên: “Thôi thì cứ gắng một vài năm, biết đâu rồi sẽ được chuyển về vùng người Kinh”.

Nhiều giáo viên phải vào vùng sâu, vùng xa, dạy học và sinh sống trong điều kiện khó khăn. Ảnh minh họa: Hồng Điệp – TTXVN

Nhiều giáo viên phải vào vùng sâu, vùng xa, dạy học và sinh sống trong điều kiện khó khăn. Ảnh minh họa: Hồng Điệp – TTXVN

Những năm 80 của thế kỷ trước, giáo viên “cắm làng” như 2 cô thực ra đã vào hàng... may mắn. Nhiều giáo viên phải vào vùng sâu, vùng xa, dạy học và sinh sống trong điều kiện mà bây giờ khó ai có thể tưởng tượng được. Còn nhớ năm 1986, tôi vào xã Đak Blô (bây giờ thuộc tỉnh Kon Tum) công tác. Sở dĩ tôi dám vào một nơi xa xôi như thế là bởi nhân tiện có chiếc xe bò vàng vào chở gỗ. Tìm được Chủ tịch UBND xã, làm việc quáng quàng cho xong, tôi ra đường chờ chiếc xe quay ra. Nhưng chẳng hiểu anh tài xế quên hay vì một lý do gì, chờ đến gần trưa cũng chẳng thấy tăm hơi chiếc xe đâu. Không còn cách nào khác, tôi đành liều cuốc bộ về huyện. Đang cắm cổ bước, tôi chợt nghe tiếng người hú phía trên triền dốc. Ngẩng đầu nhìn lên thì thấy 2 cô gái vừa gọi vừa giơ tay vẫy.

“Lạ nhỉ, ai mà lại làm nhà ra sống tách biệt giữa núi rừng thế này?”. Lòng đầy nghi hoặc nhưng không nén nổi sự tò mò, tôi quyết định tới nơi xem thử. Thì ra là 2 cô giáo “cắm làng”. Trường của 2 cô, chính xác thì nó là một ngôi nhà tranh vách nứa, nhỉnh hơn căn lều một chút, được ngăn làm đôi. Một bên là nơi ở của 2 cô, một bên là lớp học. Bàn ghế là những cây tre lồ ô được chẻ ra ghép lại. Cả bảng cũng bằng nứa ghép lại rồi dùng than củi sơn đen. Hỏi vì sao trường học không ở gần làng, lại tách biệt giữa rừng thì được kể: Lúc các cô xuống mở lớp, làng nào cũng muốn mình có trường học, có cô giáo. Họ giành nhau không ai chịu ai. Cuối cùng thì một giải pháp “công bằng” được hai bên nhất trí là trường sẽ đóng ở trung tâm con đường nối 2 làng. “Nhiều người lạ qua đây không biết, cứ ngỡ chúng em là người mắc bệnh phong nên bị làng đuổi”-các cô cười mà khóe mắt rớm ướt.

Rồi, các cô nấu cơm trưa cho tôi ăn. Một con gà do các cô nuôi được làm thịt đãi khách. Không nước mắm, không gia vị, các cô đành chọn cách luộc lên rồi giã muối ớt chấm. Suốt bữa ăn, tôi toàn nói những chuyện vui, hài hước cho các cô khuây khỏa bởi đã quá đủ để hình dung cuộc sống ở nơi này. “Nhiều khi buồn quá, cứ thấy ai đi qua đây là chúng em ra chặn đường, lấy cớ mời vào uống nước để được trò chuyện. Thế nhưng người qua đấy cũng hiếm lắm. Suốt cả tháng nay, anh là người duy nhất chúng em được trò chuyện đấy”-các cô kể.

Những năm đất nước trong thời gian khó, những năm ngành Giáo dục các tỉnh Tây Nguyên đang đặt những viên gạch nền móng đầu tiên ở các xã vùng sâu, vùng xa, trong khi nhiều giáo viên ở ngay thị trấn, thị xã còn bỏ nghề vì đồng lương bèo bọt thì vẫn có hàng ngàn các thầy-cô giáo dấn thân, chấp nhận một cuộc sống gian khổ như thế. Từ họ, biết bao người dân ở các ngôi làng vùng sâu, vùng xa đã được khai mở những con chữ đầu tiên. Với tôi, những thầy-cô giáo “cắm làng” ở vùng sâu, vùng xa tôi gặp thời ấy, họ xứng đáng là những anh hùng. Chẳng thế mà đã gần 40 năm rồi, không gì có thể khiến tôi nhớ hơn là buổi chiều hôm ấy, khi tôi xuống đến cuối chân dốc ngoảnh lại vẫn thấy bóng dáng nhỏ bé của 2 cô còn vẫy tay theo.

Có thể bạn quan tâm

Các thành viên Câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi” Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học và THCS Đăk Rong (xã Đăk Rong) trao đổi kiến thức, kỹ năng giao tiếp. Ảnh: N.M

CLB thủ lĩnh của sự thay đổi: Sân chơi bổ ích cho học sinh dân tộc thiểu số

(GLO)- Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) huyện Kbang phối hợp với một số trường học trên địa bàn ra mắt câu lạc bộ (CLB) “Thủ lĩnh của sự thay đổi”. Câu lạc bộ trở thành sân chơi bổ ích giúp các em học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số có thêm điều kiện giao lưu, bổ sung kiến thức, kỹ năng sống.

Phát động cuộc thi viết “Những kỷ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường” năm 2024

Phát động cuộc thi viết “Những kỷ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường” năm 2024

(GLO)- Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) vừa có công văn phát động cuộc thi viết “Những kỷ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường” năm 2024. Cuộc thi nhằm lan tỏa tình cảm tốt đẹp của học sinh đối với thầy-cô giáo; đồng thời tôn vinh tấm gương nhà giáo tiêu biểu, cống hiến cho ngành Giáo dục.

Trường học không điện thoại di động

Trường học không điện thoại di động

Trường THPT Nguyễn Thượng Hiền (Q.Tân Bình, TP.HCM), nhiều năm giữ vị trí số 1 trong các trường có điểm chuẩn vào lớp 10 cao nhất TP, cấm học sinh dùng điện thoại di động trong bao nhiêu năm qua, kể cả giờ ra chơi, ăn bán trú, nghỉ trưa.