Một mình cõng chữ lên non

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Qua mấy mùa sương phủ, dấu chân của thầy Tuyền đã in mòn trên đường lên ngọn núi Ngọk Brel. Mắt lũ trẻ trên đỉnh núi này cũng đã quen nhìn cái dáng mảnh khảnh của người thầy đáng kính.

 Thầy Tuyền một mình lên Điek Ta Âu gieo chữ - Ảnh: ĐỨC NHẬT
Thầy Tuyền một mình lên Điek Ta Âu gieo chữ - Ảnh: ĐỨC NHẬT



Lớp học giữa sương mù

H.Kon Plông mưa không dứt. Đây là địa phương có lượng mưa lớn nhất của tỉnh Kon Tum. Không chờ được nắng, chúng tôi đành vượt núi trong mưa rừng. Chuyến đi lần này, chúng tôi muốn đến thăm điểm trường Điek Ta Âu ở xã Ngọk Tem (H.Kon Plông), nơi có một thầy giáo ngày ngày cắm bản trồng con chữ trên ngọn núi Ngọk Brel quanh năm mây phủ. Đó là thầy Đoàn Văn Tuyền (28 tuổi) phụ trách dạy 11 học sinh lớp ghép 1, 2.

Con đường dẫn lên điểm trường Điek Ta Âu đa phần là dốc cao dựng đứng, thi thoảng lại xuất hiện những tảng đá lớn lởm chởm nằm chắn ngang. Nói là đường nhưng thực ra chỉ là một lối mòn nhỏ. Bên này là chênh vênh sườn núi, bên kia là miên man đáy vực.

Con đường lên núi nhớp nháp bùn đất khiến chúng tôi phải bỏ xe máy lại và cuốc bộ. Thầy Lê Văn Thức, Phó hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học Ngọk Tem, vừa đạp núi vừa kể trong tiếng thở dốc: “Ở đây là vậy, mỗi khi mưa xuống đường đất trơn tuột không thể đi được bằng xe máy. Các thầy cô muốn lên điểm trường chỉ có cách lội bộ hơn 5 km. Trên đỉnh núi này có 3 nhóm hộ dân sinh sống với hàng chục đứa trẻ đang ở độ tuổi đến trường. Bởi vậy chính quyền địa phương đã xây dựng một điểm trường để xóa mù chữ cho con em”.

Thầy Thức bảo rằng điểm trường này quanh năm có sương mù. Phải đến 9 giờ sương sớm mới tan nhưng đến 14 giờ sương núi lại bắt đầu phủ xuống. Bởi vậy ở nơi đây rất lạnh, có những hôm nhiệt độ giảm xuống còn 11 độ C.

Phải mất hơn một giờ đồng hồ, chúng tôi mới đặt chân tới Điek Ta Âu. Giữa đỉnh trời Ngọk Brel dăm ba nóc nhà vách gỗ và điểm trường Điek Ta Âu lẩn khuất dưới điệp trùng mây núi. Điểm trường này là nơi duy nhất con em của người Ca Dong ở đây đến tìm cái chữ.


 

Thầy Tuyền (bìa phải) ăn uống, sinh hoạt ngay trong nhà già làng A Thao
Thầy Tuyền (bìa phải) ăn uống, sinh hoạt ngay trong nhà già làng A Thao



Người dân góp từng lon gạo, bó rau nuôi giáo viên

Càng đến gần điểm trường, tiếng tập đọc của lũ trẻ càng to rõ hơn. Thấy người lạ, tiếng đánh vần ê a giữa đại ngàn cũng bất chợt dừng lại. Lớp học là một căn nhà cấp bốn mới được xây dựng nhưng bàn ghế đã sờn cũ. Ở hai phía của lớp học có 2 tấm bảng, hai tốp học sinh xoay lưng lại với nhau. Một bên là những con số và phép cộng trừ nhân chia. Bên còn lại là bài giảng tập đọc. Thấy chúng tôi thắc mắc, thầy Thức liền giải thích, vì số lượng học sinh ít nên các em học sinh lớp 1 và 2 được gộp lại và giao cho thầy Tuyền phụ trách.

11 giờ, lớp học kết thúc bằng những cái khoanh tay chào thầy giáo của lũ trẻ. Chúng tôi theo chân thầy Tuyền về nhà. Dọc đường đi, thầy bảo lâu lắm rồi mới có khách dưới xuôi lên thăm trường. Ở cái xó núi này, làm gì có ai muốn ghé qua. Họa hoằn lắm là những đoàn công tác ghé qua trường kiểm tra rồi đi ngay.

Thầy Tuyền kể thầy quê ở Hà Tĩnh, sau khi ra trường, thầy lên huyện nghèo này gieo chữ. 7 năm nay thầy chuyển công tác 3 lần. Cuối cùng thầy về đỉnh trời Ngọk Brel.


 


"Dân làng thương thầy lắm, con em mình có biết chữ hay không là nhờ thầy cả. Thầy ở trong nhà mình, ăn uống với gia đình mình nên mình coi như con cái. Những lần thầy định bỏ về, mình biết được nên gọi bà con đến xin thầy ở lại".
 

Già làng A Thao






Trước khi được chuyển công tác lên Điek Ta Âu, thầy đã được đồng nghiệp cảnh báo về những khó khăn ở đây. “Các thầy đi trước cảnh báo sẽ rất khó khăn và gian khổ. Thế nhưng vì niềm đam mê nên mình vẫn quyết cõng ba lô vượt núi. Ngày mình lên nhận công tác, trời lúc đó cũng đang đổ mưa và phải đi bộ. Hành trang mang theo chỉ là giáo án và mấy bộ quần áo nhưng cũng nặng lắm. Một mình cứ thế cuốc bộ tiến về hướng có đỉnh núi, vừa đi vừa hỏi đường, hỏi cả chục lượt mà câu trả lời lúc nào cũng là đi thêm đoạn nữa. Mình cứ đi như thế gần 2 tiếng, mãi rồi cũng đến nơi, cổ họng khát khô, bỏng rát”, thầy Tuyền kể.

Ở cái nơi núi cao, thung sâu này cuộc sống của người dân còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Khó nhất của Điek Ta Âu là không có nguồn nước sạch, giao thông cách trở, nhiều hủ tục lạc hậu... Đường sá cách trở khiến cuộc sống bà con chỉ xoay quanh đói nghèo, lạc hậu.

“Mình dạy ở đây được 2 năm, cũng chừng ấy thời gian, người dân ở đây góp từng lon gạo, bó rau nuôi mình. Điểm trường không chỉ là nơi thắp sáng ước mơ cho bao đứa trẻ, mà đã là nhà, là gia đình của giáo viên cắm bản. Ở đó, đồng nghiệp là anh em, học sinh được thầy cô chăm như ruột thịt”, thầy Tuyền trầm ngâm nói.

Thầy Tuyền kể thầy và vợ quen nhau từ thời sinh viên rồi hai vợ chồng rủ nhau lên đây gieo chữ. Thế nhưng hai vợ chồng lại dạy học cách nhau hơn 50 km. Đứa con gái đầu lòng, vợ chồng thầy đành gửi lại cho bà ngoại nuôi.

Ở đây mưa rừng có khi kéo dài cả tháng. Khi màn đêm buông xuống, sương phủ, gió lùa, khiến cho cái lạnh như cắt da cắt thịt. Không có người thân, sóng điện thoại lại chập chờn, nhiều khi thầy Tuyền nhớ nhà nhưng cũng khó liên lạc. Có những lúc yếu lòng, thầy Tuyền đã định bỏ việc về xuôi. Thế nhưng khi biết được ý định của thầy, phụ huynh học sinh liền đến trước cổng trường xin thầy ở lại.

Ban đầu, nhà trường đã xây dựng một căn nhà cho thầy ở. Nói là xây dựng nhưng nhà chỉ là túp lều mái tranh vách nứa. Gió núi luồn qua kẽ hở thổi vào nhà buốt lạnh. Cuối cùng thương thầy ở một mình lủi thủi, cũng sợ thầy bỏ tụi nhỏ mà về dưới xuôi nên già làng A Thao (70 tuổi) đã đón thầy về ăn ở luôn trong nhà mình.

Già làng A Thao cho biết: “Dân làng thương thầy lắm, con em mình có biết chữ hay không là nhờ thầy cả. Thầy ở trong nhà mình, ăn uống với gia đình mình nên mình coi như con cái. Những lần thầy định bỏ về, mình biết được nên gọi bà con đến xin thầy ở lại”.

Còn ông Đinh Hồng Quang, Bí thư Chi bộ thôn Điek Ta Âu, nói: “Bà con trong thôn này thương thầy giáo lắm. Mỗi lần đi rẫy đi rừng, họ hái được bó rau hay săn được con chuột cũng đem về cho thầy. Những lúc không thể về xuôi, người trong làng góp lon gạo, chén mắm nuôi thầy giáo. Đáp lại tấm lòng ấy, mỗi khi có dịp về xuôi, thầy lại mua quà lên cho bà con hoặc lũ trẻ”.

Tiễn chúng tôi đến con suối đầu làng, thầy Tuyền cúi nhặt viên sỏi dúi vào tay từng người: “Các anh mang theo để khỏi quên đường về Ngọk Brel”. Rồi thầy Tuyền quay lưng, trở lại điểm trường, sương mù dày đặc che lấp dần đi cái dáng mảnh khảnh của ông giáo trẻ.


 


Giữ trò đến lớp như một “cuộc chiến” trường kỳ

Thầy Vũ Ngọc Thành, Hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học Ngọk Tem, cho biết trường có 9 điểm trường nằm rải rác ở các thôn làng. Riêng điểm trường Điek Ta Âu là nằm tốp khó khăn nhất tỉnh Kon Tum. Ở Điek Ta Âu 100% học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số. Ngoài ra, người dân ở đây điều kiện kinh tế khó khăn, tồn tại nhiều hủ tục, nên giáo viên ngoài sứ mệnh dạy học còn giống như một cán bộ cắm bản để tuyên truyền.

“Rất mừng là không riêng gì Điek Ta Âu, mà toàn trường tỷ lệ học sinh đến trường gần như đạt 100%. Ở xuôi thành tích này không có ý nghĩa mấy nhưng ở Ngọk Tem là một “thành tựu”. Bởi ở đây việc giữ trò đến lớp như một “cuộc chiến” trường kỳ của các thầy cô”, thầy Thành nói trong sự tự hào.

Chỉ kịp nằm ngủ với con một đêm rồi lại đi

“Thời gian chúng mình ở trường với học sinh còn nhiều hơn với con cái. Nếu ở trường chính, các giáo viên được gọi là “cán bộ 26”, nghĩa là thứ hai đi làm, thứ sáu về nhà. Còn mình dạy ở điểm trường, thì họa may lắm cả tháng mới về được một lần với vợ con. Những hôm về nhà được thì cũng chỉ kịp nằm ngủ với con được một đêm rồi lại phải đi”, thầy Tuyền tâm sự.


Theo ĐỨC NHẬT (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null