Chuyện xây hồ Kẻ Gỗ - Kỳ 2: Công trình của lòng dân

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News

Người Pháp dự kiến xây hồ Kẻ Gỗ trong 20 năm, người Việt đưa ra phương án 10 năm. Tuy nhiên, Hội đồng Chính phủ rút lại chỉ còn sáu năm, và điều ngoài sức tưởng tượng là người dân Nghệ Tĩnh chỉ làm trong ba năm.

Sau hai năm khởi công, nước Kẻ Gỗ đã về đồng... Chỉ có sức người là chính mà họ vẫn thành công!

Đồng lòng

Ở tuổi gần 80, ông Nguyễn Hoàng Trạch, nguyên phó chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh, vẫn hồ hởi nói chuyện với chúng tôi về hồ Kẻ Gỗ và những ngày trai trẻ của mình. Ông nói đã 40 năm qua đi nhưng trong ký ức của ông vẫn rổn rảng tiếng cuốc xẻng, tiếng hò hát tựa hôm qua.

 

Phần móng cho cửa tràn xả lũ là hạng mục khó nhất của hồ Kẻ Gỗ đã được các thợ đào giếng trợ giúp thành công.
Phần móng cho cửa tràn xả lũ là hạng mục khó nhất của hồ Kẻ Gỗ đã được các thợ đào giếng trợ giúp thành công.

Năm 1976, ông Trạch là một kỹ sư vừa tốt nghiệp khóa 1 Trường đại học Thủy lợi Hà Nội. Ra trường ông được điều động ngay về Kẻ Gỗ tham gia thiết kế và trực tiếp phụ trách một đơn vị thi công.

Để đảm bảo công trình đạt tiến độ trong ba năm như quyết tâm của chính quyền Nghệ Tĩnh lúc bây giờ, hàng vạn người dân trong tỉnh đã được huy động. Mỗi thanh niên huy động 30 ngày công trong một năm, huy động đầu người tính theo từng địa phương, từng hợp tác xã.

Những thanh niên ở các huyện xa như Chương Dương, Quế Phong cũng lũ lượt về Kẻ Gỗ. Từng đoàn xe tải chở người đổ bộ xuống dọc các cánh rừng, con sông.

“Họ chia nhau từng đại đội, trung đội và sinh hoạt giống như quân đội để thi công. Chỉ cần giao công việc cụ thể, vì đoàn người đến đây đã chuẩn bị tỉ mỉ từ cái cuốc, xẻng đến quang gánh. Họ dựng lều hoặc ở nhà dân. Những đoạn khó nhất người địa phương tại chỗ thi công, đoạn dễ hơn dành cho các thanh niên từ xa đến” - ông Trạch nhớ lại.

Chuyện đào đất đắp đê không khó, nhưng hạng mục đau đầu nhất của những người thi công lúc bây giờ là đập tràn. Bởi đập tràn khi vận hành xả nước sẽ rung lắc mạnh nên đòi hỏi hệ thống cọc chống phải đảm bảo.

“Với công nghệ bây giờ thì có thể khoan bêtông cọc nhồi một cách rất dễ dàng, nhưng lúc đó làm gì có máy khoan. Máy nổ, máy ủi có vài chiếc nhưng không có đủ dầu để chạy. Và tất cả phải dùng sức người” - ông Trạch kể lại.

 

Chỉ sau hai năm khởi công, nước Kẻ Gỗ đã về đồng.
Chỉ sau hai năm khởi công, nước Kẻ Gỗ đã về đồng.

Giải pháp táo bạo đưa ra là huy động toàn bộ các thợ đào giếng trong toàn tỉnh để thi công gần 300 giếng để đổ cọc.

Ông Trạch nhẩm tính: “Cứ 10 thợ đào giếng một hố cọc, 100 người được 10 hố, 1.000 người được 100 hố... Họ vui vẻ nhận lời và đào ngày đêm, đào rất nhanh bằng dụng cụ chuyên dùng, búa và ròng rọc.

Chẳng bao lâu mọi thứ hoàn thành, tiến độ công trình vượt dự kiến. Từ đó mới thấy được sức mạnh của lòng dân”.

Sau phần hố cọc cho trụ ở cửa tràn, việc đổ bêtông cũng cần đến một lượng lớn nhân lực bởi hàng ngàn khối bêtông mỗi ngày cần phải đổ xuống khi không có băng chuyền. Trước khi đổ bêtông, hàng ngàn thợ rèn được huy động để làm sắt.

Các thợ rèn mang theo dụng cụ của gia đình đến để cắt sắt, uốn, ép và đan thành các tấm lưới rất nhanh. Trong khi các thợ rèn cắt sắt thì hàng ngàn thợ mộc khác dùng cưa, rìu rựa, búa... để chặt cây, cưa gỗ, đóng côppha.

Ngồi trong căn nhà bên ven con kênh xanh rờn nước mát, cụ Nguyễn Thành Tấn, 78 tuổi, một thợ mộc kỳ cựu ở Cẩm Xuyên, nhớ lại rằng đó là những tháng ngày vui tươi và đầy hào hứng nhất của đời mình.

“Thức ăn không nhiều, cơm độn bo bo, nhưng chúng tôi vẫn miệt mài làm trong vui vẻ. Ngày bụi mịt mù, nắng như nung, đêm xuống lợi dụng trăng sáng chúng tôi xẻ gỗ, đóng côppha. Nghĩ đến ngày mai nước về đồng là hăng say lắm!” - cụ Tấn kể lại.

 

Vị trí Hồ Kẻ Gỗ.
Vị trí Hồ Kẻ Gỗ.

Món quà... 10 kg gạo

Người Hà Tĩnh ví von hồ Kẻ Gỗ là “biển tây” của tỉnh này. Nhưng dưới mắt các chuyên gia thủy lợi như ông Nguyễn Hoàng Trạch thì Kẻ Gỗ chính là chiếc phao cứu sinh cho hàng vạn người dân nghèo, đồng khô, cỏ cháy.

Được người Pháp khảo sát, thiết kế và thi công, rồi các bộ, ngành trung ương để mắt đến, chứng tỏ Kẻ Gỗ có một vị thế độc đáo nhất định của mình.

“Người dân mình thời đó vừa bước ra khỏi chiến tranh, vốn quen với việc dân công, hỏa tuyến nên việc mỗi người dân bỏ ra vài chục ngày trong năm để đắp đập thì chẳng ăn thua gì. Nhưng điều quan trọng hơn, theo tôi, là việc người dân thấy được tương lai của mình ở công trình này” - ông Trạch trầm ngâm nói.

Hình thức tổ chức và phương pháp thi công mới đã nâng cao năng suất lao động dù tất cả chỉ là thủ công. Chỉ riêng một tháng Công ty thủy lợi 3 đã đổ 2.500m3 bêtông, Công ty thủy lợi 4 đã đưa 350.000m3 đất lên mặt đập chính, bằng lao động trong một quý trước đó.

Cũng trong vòng một tháng Công ty Xây dựng thủy lợi 2 đã làm xong máng Rào Cái, cầu máng lớn nhất, dài nhất từ trước đến nay của ngành thủy lợi Việt Nam.

Để có đủ vật tư, thiết bị phục vụ cho công trình trọng điểm quốc gia này, các cán bộ cung ứng của tỉnh phải rải khắp từ Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng... tổ chức từng đợt tiếp nhận khẩn trương và vận chuyển thẳng vào công trường.

Ngành ngoại thương của tỉnh Hà Tĩnh phải mở chiến dịch thu mua nông sản để đổi sắt thép cho công trường.

 

Dòng nước mát từ Kẻ Gỗ chảy về.
Dòng nước mát từ Kẻ Gỗ chảy về.

Sau hai năm thi công, hàng vạn người dân của 400 đội, 19 tổng đội đã hoàn thành được đập tràn, kênh chính và dòng nước mát lành chính thức chảy qua các làng mạc.

Ông Trạch nhớ lại rằng từ năm 1975 - 1976 không có một hạt thóc để ăn, đến năm 1980 vẫn còn đói. Vì trước năm 1975 tất cả đều rót về để lo cho miền Nam, năm 1976 hạn hán rồi đói kém diễn ra người dân phải ăn củ chuối, lấy gốc chuối chẻ ra luộc ăn thay cơm.

“Trong dân còn lưu truyền các câu kiểu “Năm tám mươi gạo cũng tám mươi. Dân xứ Nghệ mắt vàng như nghệ” hoặc “Ta nghe trong đó ăn cơm là chuyện lạ”... chứng tỏ hạt thóc lúc đó quý hơn vàng” - ông Trạch kể.

Ngày dòng nước về đồng người dân đứng quanh các con kênh reo hò vui sướng. Nước chảy qua các làng mạc khô cằn làm thay đổi đời sống người dân thấy rõ.

Ba tháng sau khi dòng nước mát từ Kẻ Gỗ chảy về, những cánh đồng bắt đầu trở mình, màu non xanh của lúa tràn ngập hi vọng trên các cánh đồng.

Ông Trạch cho biết không thể nào quên được món quà ấn tượng của một bí thư huyện ủy trong chuyến công tác ra Hà Nội biếu trung ương là 10kg gạo chứa trong túi vải (ruột tượng) quấn quanh người.

Bí thư huyện ủy lý giải đó là sản phẩm từ hồ Kẻ Gỗ mang lại cơm gạo cho người dân.

Nhìn tổng thể hồ Kẻ Gỗ và lợi ích của nó, ông Trạch tự hào nói rằng: “Thời đó chúng tôi làm tất cả chỉ với một nguyện vọng, một ý chí trong sáng là vì người dân. Phải lấy dân làm mục tiêu chứ không thể lấy GDP làm mục tiêu được"

"Nếu chúng ta chạy theo các chỉ số thì chưa hẳn các chỉ số đó đã quay lại phục vụ cho người dân. Người dân ủng hộ chúng tôi vì họ cũng thấy được tương lai tươi sáng của mình”.

Theo tuoitre

Hồ Kẻ Gỗ là công trình đầu tay của ngành thủy lợi Việt Nam nên sau khi khởi công, hàng loạt địa phương khác đều cử cán bộ đến đây học hỏi kinh nghiệm.

Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng học về làm hồ Phú Ninh, tỉnh Tây Ninh cử cán bộ đi học về xây dựng hồ Dầu Tiếng, tỉnh Phú Khánh học làm hồ Đá Bàn...

Có thể bạn quan tâm

Sống ở TP.HCM: Người hạnh phúc vẽ nên sắc hồng cho bệnh nhân ung thư

Sống ở TP.HCM: Người hạnh phúc vẽ nên sắc hồng cho bệnh nhân ung thư

Hiến tóc cho bệnh nhân ung thư là một trong những hoạt động ý nghĩa nằm trong khuôn khổ chương trình 'Ngày hội Nón hồng' do Mạng lưới Ung thư vú Việt Nam (BCNV) tổ chức. Những mái tóc được gửi đến các bệnh nhân chính là biểu tượng của sự sẻ chia, tiếp thêm sức mạnh để họ tiếp tục chiến đấu.

Khơi dậy ý chí, khát vọng thoát nghèo - Kỳ 1: Những “đốm lửa hồng” nêu gương trong việc khó

Khơi dậy ý chí, khát vọng thoát nghèo - Kỳ 1: Những “đốm lửa hồng” nêu gương trong việc khó

Những năm qua, nhiều chính sách phát triển kinh tế-xã hội, an sinh xã hội, ba chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới (NTM), giảm nghèo bền vững, những chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được triển khai sâu rộng.

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

(GLO)- Cách đây gần 18 năm, trong một số công trình điều tra văn hóa các làng đồng bào dân tộc thiểu số ở TP. Pleiku thì người ta xếp một số buôn làng trong khu vực, trong đó có làng Wâu và Ktu (xã Chư Á) là làng tương đối có giá trị, đưa vào diện bảo tồn và phát triển.

Tượng đài “Chiến sĩ bất khuất Vĩnh Trinh” ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam là một trong các tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Phan. Ảnh: Tư liệu

Ký ức vỡ

Những gì không lặp lại sẽ dễ lãng quên. Người thân cũng thế, ký ức về một ai đó, sau thời gian dài không gặp sẽ bị im lìm, đóng băng. Một phần nào trong ký ức tôi tưởng chừng như thế, đã im ngủ hơn 14 năm qua tính từ ngày anh từ bỏ cõi trần gian phiền muộn này.

Khơi sáng những miền quê đáng sống - Bài 2: “Nữ hoàng” sắc hương giữa môi trường sinh thái

Khơi sáng những miền quê đáng sống - Bài 2: “Nữ hoàng” sắc hương giữa môi trường sinh thái

Nông gia Nguyễn Đáp sinh ra, lớn lên và tạo lập cơ nghiệp trên những thửa rau, hoa bậc thang của thành phố cao nguyên Đà Lạt, hiện đang chạm ngưỡng tuổi lục thập vẫn dốc tâm sức và tiền vốn để bổ sung “công năng” trên từng diện tích đất nông nghiệp của mình.

Khơi sáng những miền quê đáng sống - Bài 1: Hoa trời Âu “phát sáng” góc trời Ðà Lạt

Khơi sáng những miền quê đáng sống - Bài 1: Hoa trời Âu “phát sáng” góc trời Ðà Lạt

Trên nền tảng dẫn đầu cả nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, vùng đất Nam Tây Nguyên Lâm Đồng đã và đang mở rộng những miền quê tập trung tạo ra những mặt hàng có giá trị khác biệt, trong đó nổi trội với sản phẩm du lịch cộng đồng gắn xây dựng NTM, phát triển làng nghề ở địa phương.

Đời chìm nước nổi…

Đời chìm nước nổi…

Thời điểm này, khu vực biên giới Tây Nam đang đỉnh lũ. Mùa nước nổi năm nay lượng nước sông Mê Kông đổ về Đồng bằng sông Cửu Long cao hơn trung bình nhiều năm trước. Mùa nước nổi là lúc người dân vùng biên thức thâu đêm giăng lưới, thả câu tận hưởng lộc trời.