“Bí mật trong thung lũng”: Nghệ thuật đan dệt truyền thuyết

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Đọc "Bí mật trong thung lũng", tôi ấn tượng với cách nhà văn bao bọc thung lũng trong các truyền thuyết. Truyền thuyết lồng truyền thuyết, trong câu chuyện lớn lại có những mảnh, những phân đoạn truyện về con người khác, vừa ấm vừa lạnh, vừa bay bổng vừa lấm láp. 

Tại bìa gấp tác phẩm “Bí mật trong thung lũng”, nhà văn Trung Trung Đỉnh chia sẻ: “Nhập ngũ năm 1968, vào Tây Nguyên ở các huyện đội tại An Khê, Kbang-Gia Lai, rồi thuyên chuyển sang trường huấn luyện tân binh của Tỉnh đội, nên một thời gian dài đi cơ sở nằm trong các làng xã của hầu khắp 17 huyện, thị tỉnh Gia Lai-Kon Tum”. Sự ngắn gọn, cô đọng ấy khiến “Bí mật về thung lũng” chưa khai mở nhưng đã được xác tín, bảo đảm bởi những trải nghiệm thực tế của nhà văn ở mảnh đất Tây Nguyên.

Hòa vào câu chuyện về cuộc sống xây dựng kinh tế mới ở vùng đất này sẽ thấy sự thủy chung của người viết với nơi đã làm nên hơi thở văn chương và cuộc đời tác giả. Trong từng trang viết, chất lính từ thuở ngày xưa như chưa từng phôi phai. Các mảnh hồi ức về những ngôi làng của bà con Bahnar, Jrai bao năm “bị bom đạn chà đi xát lại”; những trận càn và thảm sát dã man của lính Mỹ với “hàng trăm xe bay trên trời, xe ủi dưới đất”; những con người lớn lên cùng cách mạng, làm dân công, gùi đạn, tải thương, du kích, chống càn, chống dồn dân lập ấp… nhiều lần len vào mạch truyện.

Với tác phẩm “Bí mật trong thung lũng”, nhà văn đã nhượng quyền kể chuyện cho cô bé Hiền nhỏ tuổi. Từ sự chuyển giao này, câu chuyện thành dòng chảy tự sự mềm mại, ngọt mát-điều không thường thấy trong các sáng tác trước đấy của Trung Trung Đỉnh.

Bìa tác phẩm “Bí mật trong thung lũng”. Ảnh: T.T.N

Bìa tác phẩm “Bí mật trong thung lũng”. Ảnh: T.T.N

Đọc tác phẩm, tôi ấn tượng với cách nhà văn bao bọc thung lũng trong các truyền thuyết. Truyền thuyết lồng truyền thuyết, trong câu chuyện lớn lại có những mảnh, những phân đoạn truyện về con người khác, vừa ấm vừa lạnh, vừa bay bổng vừa lấm láp. Người đọc vì vậy mà dùng dằng, chập chờn giữa hư hư thực thực.

Nếu như truyền thuyết về hồ Đak Xút tràn đầy cảm hứng lãng mạn thì câu chuyện về những con người dưới vòm cây kơ nia lại lắng đọng vô cùng. Già H’klin, cô giáo H’lian là những vệt buồn ngơ ngác trong tác phẩm. Bà H’klin lặng lẽ dệt những tấm dồ, lặng lẽ nhớ những đứa con đã hy sinh, nhớ người chồng trước khi bị xe củi của chủ làng đè chết. Còn cô giáo H’lian là nạn nhân của bọn loạn rừng. Bọn FULRO quay lại, phá tan sự bình yên của các làng, đập phá xơ xác ruộng lúa vừa chín, đốt cháy những ngôi nhà, bắn chết cô giáo. Kết nối hai vệt buồn thương ấy sẽ thấy sự chuyển động của mảnh đất Tây Nguyên qua các thời kỳ lịch sử.

Nỗi đau của già H’klin gắn với số phận chung của nhiều đồng bào nơi đây những năm đánh Pháp, đánh Mỹ. Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, họ sống đời nô lệ, bị sự bóc lột dã man của các chủ làng. Khi tiếng súng Việt Minh “lan từ làng này sang làng khác”, họ xuống thị trấn, thị xã tham gia biểu tình đòi quyền sống; chạy lên núi cao gặp Bộ đội Cụ Hồ, sống cùng cách mạng. Khi giặc Mỹ tới, họ tiếp tục tham gia cách mạng, làm dân công, làm du kích… Hình ảnh cỏ lông chông được nhắc đến 2 lần trong tác phẩm, quay quắt bám trụ qua các biến động, như chính cuộc đời già H’klin, già Đim…

Khi kể bí mật về thung lũng, nhà văn khôn ngoan tạo ra những “cái bóng”-những con người có nhiều nét tương đồng. Nghệ thuật này cho thấy sự đổ bóng, tiếng vọng, sức ảnh hưởng của dân gian và quá khứ đối với cuộc sống hiện tại; đồng thời khẳng định sự lặp lại về số phận, nét đặc thù về tính cách của con người nơi đây. Tôi cho rằng, trong tác phẩm này, nhà văn đã thể hiện sự trân trọng đáng kể đối với nền văn hóa mang tính mẫu hệ của đồng bào Tây Nguyên trong quá khứ. Chính vì điều này mà cảm hứng về vẻ đẹp nữ giới không chỉ dừng ở già H’klin mà tiếp tục chảy đến thế hệ của cô giáo H’lian.

Miền Nam ngừng tiếng súng, H’lian đi học làm cô giáo, đem cái chữ về dạy cho trẻ con trong buôn làng. Cô cũng là chỉ huy của “hàng trăm chiến sĩ tí hon”, sung quân cho tổ Đ’rao. Nhưng tiếng súng khô khốc từ phía đập nước của bọn FULRO đã làm dang dở cuộc đời thanh tân. Cái chết của nhân vật mở ra vết thương mới của đồng bào Tây Nguyên khi vết thương cũ còn chưa lành miệng. Phải vì những vết thương như thế mà “thung lũng hoa” không thể lúc nào cũng bảng lảng trong sương, trong hương? Chính người kể chuyện-cô bé Hiền-sau cái chết của cô giáo H’lian cũng đã trở thành thiếu nữ. Trong nỗi đau và qua nỗi đau, phần ấu thơ đã bị đẩy lùi.

Một điều rất đáng kể trong tác phẩm này là Trung Trung Đỉnh đã cho thấy sức mạnh của sự thật, trong đó có sự thật về các phong tục, tập tính của người Tây Nguyên. Tục lệ của người Bahnar, Jrai được nhà văn tả, thuật gọn gàng trong vài trang truyện. Lễ pơ thi hiện diện ngôi nhà mồ sặc sỡ hoa văn, những bức tượng chim muông và cây nêu. Già Đim thực hiện nghi lễ cúng ma, gọi hồn lúa, hồn bắp, hồn heo gà về với những lời khấn thiêng. Mọi người đeo mặt nạ nhảy múa quanh nhà mồ.

Ở lễ đâm trâu, điệu chiêng tiễn đưa người chết không mang cái xốn xang, u buồn thường tình mà làm lòng người trở nên rạo rực, được chở che. “Những người đi cà kheo cao lêu đêu dẫn bước cho những người đeo mặt nạ múa điệu múa thời tiền sử”. Cả một vườn tượng vây quanh nhà mồ, quấn quýt bên người chết… Còn nhớ, trong tác phẩm, có đoạn, nhà văn viết: “Sự giản dị chính là điều huyền bí, là vẻ đẹp thiêng liêng, là tất cả những gì tạo nên sức mạnh và tình yêu của con người đối với quê hương mình”. Lưu giữ được những tập tính, nghi lễ ấy cũng chính là tình yêu đối với nguồn cội, đối với quê hương xứ sở.

Chỉ gần 80 trang truyện nhưng lớp lớp bí mật về “thung lũng hoa” không ngừng mở ra. Đất Tây Nguyên vì vậy khó mà bóc hết lớp sương mù bao phủ. Câu chuyện kết thúc với việc nhân vật A Tờ Rin biến mất sau những chiều đứng hát dưới vòm cây kơ nia và việc rừng cấm được khai thông. Thế nhưng, bước chân vào khu rừng, chẳng ai thấy gì ngoài con suối ngầm róc rách trong hẻm đá. Suối “chia làm hai dòng, một dòng mát trong, còn dòng kia thì nóng ấm. Cả hai cùng đổ xuống thung lũng theo con đường riêng của mình, trong lòng núi”. Đấy là cái kết khôn ngoan của nhà văn.

Có là người gắn bó dài lâu với Tây Nguyên đi chăng nữa thì không ai dám chắc đã nằm lòng những bí mật của nơi này. Dòng chảy này được khai thông thì xuất hiện dòng chảy khác. Thung lũng với các câu chuyện quá khứ và những nhịp đập ấm nóng hôm nay, cứ vậy mà tiếp tục bồng bềnh mời gọi, không chỉ với độc giả mà với cả nhà văn Trung Trung Đỉnh, để tiếp tục mở rộng tấm bản đồ văn chương về mảnh đất Tây Nguyên, nơi nhà văn vẫn thường gọi là nhà.

Có thể bạn quan tâm

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

(GLO)- Giữa những cơn gió xào xạc của núi rừng Tây Nguyên bỏng rát, bài thơ “Biên cương mùa gió” của Lê Vi Thủy như thổi vào lòng người nỗi xúc động lặng thầm. Từ ánh mắt trẻ thơ đến no ấm buôn làng và những giọt mồ hôi người lính, tất cả hòa quyện trong khát vọng yên bình nơi địa đầu Tổ quốc.

Tổ quốc trong tim

Thơ Lenguyen: Tổ quốc trong tim

(GLO)- Bài thơ “Tổ quốc trong tim” của tác giả Lenguyen là lời tri ân sâu sắc với cha ông đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Từ Cửu Long đến Trường Sơn, từ Điện Biên đến Sài Gòn, một Việt Nam bất khuất vươn lên giữa máu và hoa, rạng ngời sắc cờ Tổ quốc.

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

(GLO)- Trong nhịp sống hiện đại hối hả, bài thơ "Lòng quê" của tác giả Đào An Duyên là tiếng vọng thầm lặng mà day dứt. Người xa quê, dù ở đâu chăng nữa vẫn mang trong tim nỗi nhớ cội nguồn. Qua hình ảnh nước xuôi nước ngược, bài thơ gợi về sự gắn bó thiêng liêng giữa con người và quê hương.

Người nặng lòng với dân ca Tày

Người nặng lòng với dân ca Tày

(GLO)-Hơn 30 năm kể từ ngày rời quê hương Cao Bằng vào Gia Lai lập nghiệp, ông Mã Văn Chức (SN 1961, tổ 3, thị trấn Phú Thiện) vẫn nặng lòng với văn hóa dân tộc Tày. Hơn 100 bài hát đã được ông sáng tác theo làn điệu dân ca Tày với mong muốn “giữ lửa” cho âm nhạc dân gian.

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

(GLO)- Bằng hình ảnh thiên nhiên giàu biểu cảm, bài thơ "Những gương mặt hoa cài" của Lữ Hồng gợi nên vẻ đẹp bình yên ẩn sâu trong nhịp sống phố thị. Lời thơ không chỉ là hoài niệm, mà còn là nơi gửi gắm tình yêu, ký ức và những giấc mơ không lời giữa tháng năm xoay vần.

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

(GLO)- Bài thơ "Phía Trường Sơn" của Sơn Trần là khúc trầm sâu lắng về nỗi nhớ và sự hy sinh lặng thầm phía hậu phương. Tháng Tư về trên biên cương đầy cỏ xanh và chiều sương phủ trắng, nỗi nhớ hòa quyện cùng đất trời, tạo nên một bản tình ca sâu lắng dành cho cha-người lính năm xưa.

Khẳng định sức sống bất tận của văn học nghệ thuật trong đời sống tinh thần Nhân dân

Khẳng định sức sống bất tận của văn học nghệ thuật trong đời sống tinh thần Nhân dân

(GLO)- Đó là phát biểu của Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Châu Ngọc Tuấn tại hội nghị tổng kết 50 năm nền văn học nghệ thuật tỉnh Gia Lai sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025) diễn ra vào sáng 23-4 tại Hội trường 2-9 (TP. Pleiku).

Nơi “Ngọn lửa cao nguyên” rực sáng

Nơi “Ngọn lửa cao nguyên” rực sáng

(GLO)- Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam có nhiều ca khúc không chỉ đơn thuần là tác phẩm nghệ thuật mà còn là biểu tượng của một vùng quê. Nơi ấy, tình yêu và nỗi nhớ không thể phai mờ. “Ngọn lửa cao nguyên” của nhạc sĩ Trần Tiến chính là một trong những ca khúc như thế.

“Lặng lẽ trưởng thành” cùng sách

“Lặng lẽ trưởng thành” cùng sách

(GLO)- “Dáng vẻ của một người yên lặng đọc sách khá giống với những gì tôi cảm thấy khi nghĩ về một người đang trưởng thành trong lặng lẽ”-đó là cảm nhận của chị Trần Thị Kim Phùng Thủy-Trưởng ban Điều hành dự án “Văn hóa đọc Gia Lai” về giá trị sâu bền mà sách mang lại.

Thơ Lenguyen: Mùa qua phố

Thơ Lenguyen: Mùa qua phố

(GLO)- Bài thơ "Mùa qua phố" của tác giả Lenguyen là một bức tranh dịu dàng, gợi cảm xúc, đưa người đọc bước vào không gian phố núi Pleiku trong thời khắc chuyển mùa. Với giọng điệu lãng mạn và sâu lắng, bài thơ khơi gợi vẻ đẹp bình dị nhưng đầy chất thơ của phố núi...

Con đường tất yếu

Con đường tất yếu

Vài năm trở lại đây, các sản phẩm văn hóa - nghệ thuật Việt đã được khai thác với tinh thần mới: vừa trân trọng truyền thống, vừa dấn thân khai phá cái mới.