“Bí mật trong thung lũng”: Nghệ thuật đan dệt truyền thuyết

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

(GLO)- Đọc "Bí mật trong thung lũng", tôi ấn tượng với cách nhà văn bao bọc thung lũng trong các truyền thuyết. Truyền thuyết lồng truyền thuyết, trong câu chuyện lớn lại có những mảnh, những phân đoạn truyện về con người khác, vừa ấm vừa lạnh, vừa bay bổng vừa lấm láp. 

Tại bìa gấp tác phẩm “Bí mật trong thung lũng”, nhà văn Trung Trung Đỉnh chia sẻ: “Nhập ngũ năm 1968, vào Tây Nguyên ở các huyện đội tại An Khê, Kbang-Gia Lai, rồi thuyên chuyển sang trường huấn luyện tân binh của Tỉnh đội, nên một thời gian dài đi cơ sở nằm trong các làng xã của hầu khắp 17 huyện, thị tỉnh Gia Lai-Kon Tum”. Sự ngắn gọn, cô đọng ấy khiến “Bí mật về thung lũng” chưa khai mở nhưng đã được xác tín, bảo đảm bởi những trải nghiệm thực tế của nhà văn ở mảnh đất Tây Nguyên.

Hòa vào câu chuyện về cuộc sống xây dựng kinh tế mới ở vùng đất này sẽ thấy sự thủy chung của người viết với nơi đã làm nên hơi thở văn chương và cuộc đời tác giả. Trong từng trang viết, chất lính từ thuở ngày xưa như chưa từng phôi phai. Các mảnh hồi ức về những ngôi làng của bà con Bahnar, Jrai bao năm “bị bom đạn chà đi xát lại”; những trận càn và thảm sát dã man của lính Mỹ với “hàng trăm xe bay trên trời, xe ủi dưới đất”; những con người lớn lên cùng cách mạng, làm dân công, gùi đạn, tải thương, du kích, chống càn, chống dồn dân lập ấp… nhiều lần len vào mạch truyện.

Với tác phẩm “Bí mật trong thung lũng”, nhà văn đã nhượng quyền kể chuyện cho cô bé Hiền nhỏ tuổi. Từ sự chuyển giao này, câu chuyện thành dòng chảy tự sự mềm mại, ngọt mát-điều không thường thấy trong các sáng tác trước đấy của Trung Trung Đỉnh.

Bìa tác phẩm “Bí mật trong thung lũng”. Ảnh: T.T.N

Bìa tác phẩm “Bí mật trong thung lũng”. Ảnh: T.T.N

Đọc tác phẩm, tôi ấn tượng với cách nhà văn bao bọc thung lũng trong các truyền thuyết. Truyền thuyết lồng truyền thuyết, trong câu chuyện lớn lại có những mảnh, những phân đoạn truyện về con người khác, vừa ấm vừa lạnh, vừa bay bổng vừa lấm láp. Người đọc vì vậy mà dùng dằng, chập chờn giữa hư hư thực thực.

Nếu như truyền thuyết về hồ Đak Xút tràn đầy cảm hứng lãng mạn thì câu chuyện về những con người dưới vòm cây kơ nia lại lắng đọng vô cùng. Già H’klin, cô giáo H’lian là những vệt buồn ngơ ngác trong tác phẩm. Bà H’klin lặng lẽ dệt những tấm dồ, lặng lẽ nhớ những đứa con đã hy sinh, nhớ người chồng trước khi bị xe củi của chủ làng đè chết. Còn cô giáo H’lian là nạn nhân của bọn loạn rừng. Bọn FULRO quay lại, phá tan sự bình yên của các làng, đập phá xơ xác ruộng lúa vừa chín, đốt cháy những ngôi nhà, bắn chết cô giáo. Kết nối hai vệt buồn thương ấy sẽ thấy sự chuyển động của mảnh đất Tây Nguyên qua các thời kỳ lịch sử.

Nỗi đau của già H’klin gắn với số phận chung của nhiều đồng bào nơi đây những năm đánh Pháp, đánh Mỹ. Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, họ sống đời nô lệ, bị sự bóc lột dã man của các chủ làng. Khi tiếng súng Việt Minh “lan từ làng này sang làng khác”, họ xuống thị trấn, thị xã tham gia biểu tình đòi quyền sống; chạy lên núi cao gặp Bộ đội Cụ Hồ, sống cùng cách mạng. Khi giặc Mỹ tới, họ tiếp tục tham gia cách mạng, làm dân công, làm du kích… Hình ảnh cỏ lông chông được nhắc đến 2 lần trong tác phẩm, quay quắt bám trụ qua các biến động, như chính cuộc đời già H’klin, già Đim…

Khi kể bí mật về thung lũng, nhà văn khôn ngoan tạo ra những “cái bóng”-những con người có nhiều nét tương đồng. Nghệ thuật này cho thấy sự đổ bóng, tiếng vọng, sức ảnh hưởng của dân gian và quá khứ đối với cuộc sống hiện tại; đồng thời khẳng định sự lặp lại về số phận, nét đặc thù về tính cách của con người nơi đây. Tôi cho rằng, trong tác phẩm này, nhà văn đã thể hiện sự trân trọng đáng kể đối với nền văn hóa mang tính mẫu hệ của đồng bào Tây Nguyên trong quá khứ. Chính vì điều này mà cảm hứng về vẻ đẹp nữ giới không chỉ dừng ở già H’klin mà tiếp tục chảy đến thế hệ của cô giáo H’lian.

Miền Nam ngừng tiếng súng, H’lian đi học làm cô giáo, đem cái chữ về dạy cho trẻ con trong buôn làng. Cô cũng là chỉ huy của “hàng trăm chiến sĩ tí hon”, sung quân cho tổ Đ’rao. Nhưng tiếng súng khô khốc từ phía đập nước của bọn FULRO đã làm dang dở cuộc đời thanh tân. Cái chết của nhân vật mở ra vết thương mới của đồng bào Tây Nguyên khi vết thương cũ còn chưa lành miệng. Phải vì những vết thương như thế mà “thung lũng hoa” không thể lúc nào cũng bảng lảng trong sương, trong hương? Chính người kể chuyện-cô bé Hiền-sau cái chết của cô giáo H’lian cũng đã trở thành thiếu nữ. Trong nỗi đau và qua nỗi đau, phần ấu thơ đã bị đẩy lùi.

Một điều rất đáng kể trong tác phẩm này là Trung Trung Đỉnh đã cho thấy sức mạnh của sự thật, trong đó có sự thật về các phong tục, tập tính của người Tây Nguyên. Tục lệ của người Bahnar, Jrai được nhà văn tả, thuật gọn gàng trong vài trang truyện. Lễ pơ thi hiện diện ngôi nhà mồ sặc sỡ hoa văn, những bức tượng chim muông và cây nêu. Già Đim thực hiện nghi lễ cúng ma, gọi hồn lúa, hồn bắp, hồn heo gà về với những lời khấn thiêng. Mọi người đeo mặt nạ nhảy múa quanh nhà mồ.

Ở lễ đâm trâu, điệu chiêng tiễn đưa người chết không mang cái xốn xang, u buồn thường tình mà làm lòng người trở nên rạo rực, được chở che. “Những người đi cà kheo cao lêu đêu dẫn bước cho những người đeo mặt nạ múa điệu múa thời tiền sử”. Cả một vườn tượng vây quanh nhà mồ, quấn quýt bên người chết… Còn nhớ, trong tác phẩm, có đoạn, nhà văn viết: “Sự giản dị chính là điều huyền bí, là vẻ đẹp thiêng liêng, là tất cả những gì tạo nên sức mạnh và tình yêu của con người đối với quê hương mình”. Lưu giữ được những tập tính, nghi lễ ấy cũng chính là tình yêu đối với nguồn cội, đối với quê hương xứ sở.

Chỉ gần 80 trang truyện nhưng lớp lớp bí mật về “thung lũng hoa” không ngừng mở ra. Đất Tây Nguyên vì vậy khó mà bóc hết lớp sương mù bao phủ. Câu chuyện kết thúc với việc nhân vật A Tờ Rin biến mất sau những chiều đứng hát dưới vòm cây kơ nia và việc rừng cấm được khai thông. Thế nhưng, bước chân vào khu rừng, chẳng ai thấy gì ngoài con suối ngầm róc rách trong hẻm đá. Suối “chia làm hai dòng, một dòng mát trong, còn dòng kia thì nóng ấm. Cả hai cùng đổ xuống thung lũng theo con đường riêng của mình, trong lòng núi”. Đấy là cái kết khôn ngoan của nhà văn.

Có là người gắn bó dài lâu với Tây Nguyên đi chăng nữa thì không ai dám chắc đã nằm lòng những bí mật của nơi này. Dòng chảy này được khai thông thì xuất hiện dòng chảy khác. Thung lũng với các câu chuyện quá khứ và những nhịp đập ấm nóng hôm nay, cứ vậy mà tiếp tục bồng bềnh mời gọi, không chỉ với độc giả mà với cả nhà văn Trung Trung Đỉnh, để tiếp tục mở rộng tấm bản đồ văn chương về mảnh đất Tây Nguyên, nơi nhà văn vẫn thường gọi là nhà.

Có thể bạn quan tâm

Gương mặt thơ: Phạm Thùy Vinh

Gương mặt thơ: Phạm Thùy Vinh

(GLO)- Thường thì người Nghệ hay đi làm ăn xa và họ thành đạt ở đấy. Văn nghệ sĩ lại càng thế. Là tôi nhận ra điều này từ những người bạn văn của mình, tất nhiên, vẫn có ngoại lệ hoặc có thể tôi sai.
Ban tế lễ thực hiện nghi thức cúng. Ảnh: Vũ Chi

Người dân Phú Thiện Giỗ Tổ Hùng Vương

(GLO)- Tối 18-4 (nhằm mùng 10-3 âm lịch), người dân tổ dân phố 8 (thị trấn Phú Thiện, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai) tập trung đông đủ về nhà văn hóa của tổ để tổ chức lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương, tưởng nhớ Vua Hùng và các bậc tiền nhân đã có công dựng nước.
Thơ Đào An Duyên: Ghi ở Đền Hùng

Thơ Đào An Duyên: Ghi ở Đền Hùng

(GLO)- 

Cảnh vật trên đỉnh Nghĩa Lĩnh cũ xưa như nghìn năm vẫn thế. Tác giả như lạc về nghìn xưa ấy và cảm nhận được bước luân chuyển vần vũ của thời gian. Vật đổi sao dời, chỉ có những buổi chiều nơi đây luôn mãi trong xanh…

Thiết chế văn hóa cộng đồng

Thiết chế văn hóa cộng đồng

Từ giữa tháng 3.2024, dù chỉ mới hoạt động thử nghiệm, chưa hoàn thiện bàn giao, nhưng nhiều người vẫn chờ đợi suốt nhiều giờ để chờ xem nhạc nước tại quảng trường 29.3 (đường 2.9, Q.Hải Châu, TP.Đà Nẵng).
Thơ Hoàng Đăng Du: Mùa trôi

Thơ Hoàng Đăng Du: Mùa trôi

(GLO)- Dẫu biết rằng xuân qua hạ tới, thu tận đông tàn là quy luật của thiên nhiên nhưng sao chứng kiến những khoảnh khắc mùa nối mùa vẫn khiến tác giả Hoàng Đăng Du không khỏi cảm thấy chút nuối tiếc, hụt hẫng, bâng khuâng...
Nguyễn Thị Thanh Thúy: Chọn đi đường dài với văn chương

Nguyễn Thị Thanh Thúy: Chọn đi đường dài với văn chương

(GLO)- Được đào tạo chuyên ngành Văn học, khi ra trường lại quyết liệt theo đuổi nghề báo, sau đó “đầu quân” vào ngành Công an và bất chợt tìm thấy niềm hạnh phúc với văn chương-đó là những bước ngoặt bất ngờ trong cuộc sống của Thượng úy Nguyễn Thị Thanh Thúy (Phòng ANCT nội bộ, Công an tỉnh).

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Nắng

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Nắng

(GLO)- Nắng hòa cùng bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thành những gam màu khác nhau. Trong bài thơ mới của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng, nắng được hóa thân thành "cô bé" với những tính cách nhí nhảnh, đáng yêu...
Gương mặt thơ: Nguyễn Ngọc Tư

Gương mặt thơ: Nguyễn Ngọc Tư

(GLO)- Tôi quen và chơi với Nguyễn Ngọc Tư đã mấy chục năm và cũng hết sức bất ngờ khi mới đây chị công bố... thơ, mà tới 2 tập liên tiếp và bán tơi tới. Thì cả nước đều biết Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn nổi tiếng, nhất là sau khi “Cánh đồng bất tận” xuất hiện.
Thơ Lê Từ Hiển: Cỏ mây

Thơ Lê Từ Hiển: Cỏ mây

(GLO)- "Cỏ mây" của nhà thơ Lê Từ Hiển như một khúc tự tình của hoa dại, của mây trời, thỏa sức sống đời thảnh thơi nơi triền sông, cô độc trong sự ngọt ngào, hồn nhiên, ngất ngưởng...