70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài 2: Thăm lại bến phà Tạ Khoa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Bến phà Tạ Khoa (huyện Bắc Yên, Sơn La) nối liền hai bờ sông Đà, là điểm trọng yếu trên cung đường chuyển quân, lương thực, vũ khí cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

Lần này, chúng tôi ghé thăm, ghi lại chuyện ở bến phà xưa, và được ông Trần Công Chính, Chủ tịch Hội TNXP tỉnh Điện Biên, giới thiệu gặp cựu thanh niên xung phong (TNXP) từng chiến đấu tại bến phà này…

Mỗi ngày, phà hứng 13 tấn bom

Người chúng tôi được gặp là ông Trần Ngọc Lâm (SN 1932) quê ở xã Đạo Lý (huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Nhà ông Lâm hiện nay ở phố Nguyễn Chí Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, cạnh dòng sông Nậm Rốm lịch sử. Đầu năm 1953, anh thanh niên Lâm (21 tuổi) tham gia đội thanh niên xung phong (TNXP Đội 34), rồi được cử đi làm đường Đồng Mỏ (tỉnh Lạng Sơn). Cuối năm 1953, khi chiến dịch Điện Biên Phủ nổ ra, đội TNXP 34 được lệnh hành quân về phục vụ tại .

Ông Trần Ngọc Lâm kể chuyện về thời gian phục vụ tại bến phà Tạ Khoa.

Ông Trần Ngọc Lâm kể chuyện về thời gian phục vụ tại bến phà Tạ Khoa.

Phà Tạ Khoa cách ngã 3 Cò Nòi chừng hơn 40km. Theo tài liệu lưu tại tỉnh Sơn La, trong chiến dịch Điện Biên lịch sử, mùa xuân năm 1954, để có thể vận chuyển con người, vũ khí và các vật lực khác lên tiền tuyến, một con đường gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng được khẩn trương . Đó là con đường từ Lạng Sơn qua Thái Nguyên lên Yên Bái, vượt sông Hồng ở bến phà Âu Lâu, qua đèo Lũng Lô lên Phù Yên - Bắc Yên (Sơn La). Đường vận tải này vượt sông Đà ở bến Tạ Khoa, băng qua đèo Chẹn lên gặp đường 6 ở ngã ba Cò Nòi. Trong đó, đoạn từ đèo Lũng Lô qua phà Tạ Khoa sang ngã ba Cò Nòi là trọng điểm đánh phá của máy bay Pháp. Và, ngày đó, cung đường huyền thoại này cõng phần lớn khí tài từ Liên Xô, Trung Quốc viện trợ chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ.

Năm 2003, bến phà được thay thế bằng cây cầu bê tông nối đôi bờ sông Đà phục vụ việc đi lại, giao thương hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của huyện vùng cao Bắc Yên, tỉnh Sơn La.

Đoạn đường này kéo dài, lúc đó, địch không đủ điều kiện đánh phá diện rộng, mà tập trung vào những trọng điểm xung yếu. Và bến phà Tạ Khoa là một trong những trọng điểm vượt sông Đà của bộ đội ta. Theo ngành công binh Việt Nam tổng kết, tại ngã ba Cò Nòi cứ 13 phút là có một đợt máy bay địch đánh phá, có ngày lên tới gần 70 tấn bom. Còn bến phà Tạ Khoa trên sông Đà cũng phải hứng chịu 13 tấn bom mỗi ngày.

Bến phà Tạ Khoa qua sông Đà xưa giờ đã được thay thế bằng cây cầu bê tông.

Bến phà Tạ Khoa qua sông Đà xưa giờ đã được thay thế bằng cây cầu bê tông.

Phà Tạ Khoa xưa giờ đây được thay bằng cây cầu bê tông nối hai bờ sông Đà. Việc đi lại không còn lo ngại gì nữa. Ông Lâm nhớ lại, năm 1953 khi đến phục vụ tại bến phà này, ông là tiểu đội trưởng, cùng 12 TNXP được giao nhiệm vụ phân tán, điều tiết những đoàn xe quân sự, người qua phà. Tiểu đội của ông ăn ở, sinh hoạt cùng với một đội công binh bảo vệ phà.

Lúc bấy giờ, tiểu đội TNXP của ông Lâm được chia làm hai đội nhỏ. Một đội 6 người đóng ở lưng chừng núi thay nhau gác phát hiện máy bay do thám, đánh kẻng báo hiệu để phà tắt đèn, sơ tán phương tiện. Một đội 6 người ở dưới được chia sang 2 bờ sông làm công tác điều tiết xe, người lên phà.

Thông minh, linh hoạt

Quá trình trực chiến, đội giám sát trên núi của ông Lâm nắm được nguyên tắc hoạt động của những đội máy bay ném bom. Chúng chỉ hoạt động ban ngày, khi đi bắn phá, chúng chia thành các tốp bắn phá liên tục từ 6 giờ đến 17 giờ thì ngừng.

Ông Lâm cho biết: “Ban đêm, máy bay xuất hiện chủ yếu là để trinh sát chứ ít khi ném bom. Vì chốt của đội nằm trên lưng chừng núi nên dễ dàng quan sát phát hiện được máy bay trinh sát bật đèn pha. Khi đó, chúng tôi sẽ gõ kẻng báo để phà, xe tắt đèn, di tản ra xung quanh để không bị phát hiện”.

Ông Lâm kể, tại bến Tạ Khoa có 2 chiếc phà, luân chuyển như con thoi suốt đêm. Chiếc này sang thì chiếc còn lại quay về. Để đi đêm, trên phà được trang bị đèn báo bão để báo hiệu. “Khi đó, phà được thiết kế đơn giản lắm, công suất cũng nhỏ. Phà là những tấm gỗ lớn được ghép vào nhau rồi gắn ca nô vào dắt. Một chiếc phà khi đó có chiều rộng chừng 4,5m, chiều dài khoảng 10m. Mỗi lần sang sông chỉ chở được một xe ô tô có kéo pháo phía sau. Cứ khoảng 1 giờ thì sẽ có một chuyến chở xe tải và pháo qua sông. Trong thời gian chờ thì chở người, lương thực, đạn dược. Nếu không có phương tiện thì cứ 60 người là đủ tải một chuyến. Và nhiệm vụ của đội TNXP là phân tán, điều tiết để chuyến phà đủ tải trọng khi qua sông”, ông Lâm nhớ lại.

Ông kể công tác giữ bí mật lúc đó được đảm bảo tuyệt đối. Ngay cả điểm lập bến phà qua dòng Đà Giang hung dữ tại Tạ Khoa cũng được cấp trên tính toán, lựa chọn kỹ càng. Bởi đoạn được chọn hoạt động phà lòng sông chỉ rộng chừng 200m, không có thác ghềnh, không có đá ngầm. Hai bên bờ sông có các dãy núi cao che chắn. Nếu máy bay có ném bom cũng sẽ rơi trên các đỉnh núi, ít có khả năng ảnh hưởng đến chuyến phà.

Thời điểm đó, phà chạy suốt đêm, đến 5 giờ sáng hôm sau cả người, xe và phà đều phải sơ tán vào rừng. Còn vị trí giấu phà cách điểm sang sông hơn 1km. Phà được đưa vào chỗ kín, có cây to ngả xuống, nhiều cành lá được chặt để che đậy. Có những lúc, phà được cho đá lên để dìm xuống dưới mặt nước.

Ông Lâm kể về một sự kiện sau Chiến dịch Điện Biên Phủ mà ông vẫn còn nhớ. Ngoài việc bộ đội lên chiến trường chiến đấu, chiến thắng trở về qua phà Tạ Khoa để về chiến khu. Mấy ngày sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, đơn vị của ông nhận được tin báo sẽ có đoàn tù binh được đưa qua phà để sang Yên Bái, lên tàu về xuôi. Tù binh phải được đảm bảo an toàn, bí mật. “Nhiệm vụ của chúng tôi là đảm bảo an toàn thông suốt, không để tù binh trốn khi qua phà. Đêm hôm đó, tất cả tù binh là các tướng tá được chở trên 5 xe tải. Còn lại hơn 16.000 lính đều đi bộ đến khu vực phà thì dừng lại. Đoàn người trải dài, hai bên là rừng núi nên cứ khoảng vài chục mét lại có một chiến sỹ của ta làm nhiệm vụ giám sát. Khi lên phà sang sông, cả tướng Đờ Cát và cả đoàn tướng tá đi cùng đều phải xuống xe. Qua ánh đèn le lói, tôi được chỉ cho biết mặt vị tướng này. Lúc đó, mặt ông ta tái sạm đi, không còn điệu bộ oai phong với chiếc mũ ca lô lệch trên đầu như người ta vẫn kể”.

Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, ông về công tác tại Đội 34 Công trường 111 TNXP và tiếp tục lên khu vực biên giới tỉnh Lai Châu mở đường từ Pa Tần (huyện Sìn Hồ) đến Ma Lù Thàng (huyện Phong Thổ), rồi sau đó nghỉ hưu. Đến nay, tuy đã 92 tuổi nhưng ông Lâm vẫn còn khỏe. “Tôi đi kiểm tra định kỳ, không có bệnh tật gì. Mỗi sáng tôi vẫn đạp xe 5, 6km bên dòng sông Nậm Rốm để luyện tập, dạo mát và ngẫm nghĩ về cuộc đời mình. Và, quãng thời gian phục vụ tại bến phà Tạ Khoa là quãng đời đáng nhớ nhất của tôi”, ông Lâm bộc bạch.

(Còn nữa)

Có thể bạn quan tâm

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Trong hai năm 2024-2025, thủ phủ Tây Nguyên trúng đậm cà phê. Chỉ tính riêng huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông cũ), các lão nông đã sắm 1.000 ô tô trong năm 2024. Xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi giáp Lào và Campuchia) cũng chung niềm vui ấy...

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Gìn giữ kỷ vật tri ân

Gìn giữ kỷ vật tri ân

(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ hơn 4.000 tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật có giá trị về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; trong đó, có gần 300 hiện vật, tư liệu, hình ảnh về các mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ ở vùng đất Bình Định trước đây.

Vào rừng... chờ ươi bay

Vào rừng... chờ ươi bay

Sau 4 năm, khi những cánh rừng già miền núi TP.Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chuyển mình vào mùa ươi chín, hàng ngàn người dân lại có một cuộc 'di cư' tạm thời vào rừng sâu chờ 'lộc trời' rơi xuống để nhặt.

null