Tìm thấy làng cụ tổ của gốm Bát Tràng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Gốm Bồ Bát là làng cụ tổ, nơi hình thành nghề gốm đặc sắc cho làng Bát Tràng ngày nay. Khắc họa lịch sử vĩ đại và những nỗ lực hồi sinh của người thợ gốm, làng gốm Bồ Bát hiện đang nổi lên như một biểu tượng cho sự hồi sinh và khởi sắc của nghệ thuật gốm truyền thống Việt Nam.

Truyền thống 4.000 năm

Với hàng nghìn năm lịch sử, Ninh Bình là một vùng đất thanh bình và thơ mộng của Việt Nam, với nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng. Trong số nghề, làng gốm Bồ Bát, tại làng Bạch Liên, xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, được coi là "tổ nghề" của làng gốm Bát Tràng nổi tiếng với những sản phẩm gốm sứ độc đáo.

Gốm Bồ Bát không chỉ đơn thuần là nghề gốm mà còn là một phần không thể thiếu trong lịch sử văn hóa và kinh tế của đất nước. Vào năm 1010, vua Lý Công Uẩn đã lựa chọn Thăng Long (Hà Nội) làm kinh đô mới, và những nghệ nhân tài hoa của làng gốm Bồ Bát đã chọn theo triều đình bắt đầu cuộc hành trình chinh phục vùng đất mới ven sông Hồng. Những nghệ nhân định cư tại miền đất ven sông Hồng đã truyền cảm hứng khai sinh làng gốm sứ Bát Tràng nổi tiếng ngày nay.

Lòng kiêu hãnh về di sản truyền thống, tại đình làng Bát Tràng, vẫn lưu giữ đôi câu đối ghi dấu kỷ niệm về việc di cư: "Bồ di thủ nghệ khai Đình vũ - Lan nhiệt tâm hương bái thánh thần". Những câu thơ ấy thể hiện tâm huyết của những người thợ gốm Bồ Bát khi họ theo đuổi nghề nghiệp và truyền thống mang đến nơi xa, góp phần xây dựng đình miếu tại Bát Tràng, nơi dân làng dâng lên lòng kính trọng và tôn thờ thần linh.

Tuy nhiên, sau khi những nghệ nhân tài hoa dời đi, làng gốm Bồ Bát bấy giờ chỉ còn lại một số ít người giữ nghề, và cuộc sống đầy khó khăn đã khiến nghề gốm dần mai một và thất truyền theo thời gian.

Người phục dựng lại làng tổ nghề

May mắn thay, tinh thần kiên định và niềm đam mê không mệt mỏi của nghệ nhân Phạm Văn Vang đã đưa làng gốm Bồ Bát trở lại cuộc sống. Sau khi học nghề gốm ở Hà Nội và Bắc Giang, anh quyết định quay về quê hương để phục dựng và phát triển nghề gốm truyền thống Bồ Bát.

Với sự ủng hộ từ gia đình và người dân làng Bạch Liên, năm 2003, anh Vang quyết định trở về quê hương để xây dựng xưởng gốm với quy mô lớn hơn và tuyển dụng hơn 20 thợ làm gốm trong gia đình. Để có đủ nhân lực, anh tuyển thêm 10 thanh niên trẻ đi học nghề tại Bát Tràng.

Không chỉ tập trung vào sản xuất, anh Vang còn mở lớp dạy nghề và trực tiếp giảng dạy cầm tay chỉ việc cho hơn 50 công nhân. Việc này giúp đào tạo thêm nguồn nhân lực có chất lượng và kỹ năng làm việc cao. Nhờ những nỗ lực không ngừng, thương hiệu gốm Bồ Bát dần được biết đến và đánh dấu sự khởi sắc của nghề gốm truyền thống Việt Nam.

Các nghệ nhân của xưởng gốm Bồ Bát. Ảnh: Đ.H

Các nghệ nhân của xưởng gốm Bồ Bát. Ảnh: Đ.H

Sản phẩm gốm Bồ Bát cũng đã được công nhận và vinh danh trong nhiều dịp quan trọng. Tỉnh Ninh Bình đã chọn sản phẩm gốm Bồ Bát tham gia triển lãm "Thành tựu kinh tế - xã hội Việt Nam và Thăng Long - Hà Nội" chào mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội vào năm 2010.

Anh Vang cũng được tặng danh hiệu Nghệ nhân thủ công mỹ nghệ Ninh Bình vào năm 2013, và sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân gốm Bồ Bát được Bộ Công thương vinh danh nhiều lần.

Tuy nhiên, việc phát triển làng nghề Bồ Bát vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức. Việc phục hồi và phát triển làng gốm Bồ Bát không hề dễ dàng. Gia đình nghệ nhân Phạm Văn Vang không giàu có và số tiền tích lũy từ nhiều năm làm gốm thuê không đủ để xây dựng cơ sở sản xuất và đáp ứng các chi phí khác. Anh Vang đã phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc vay vốn và nhận sự hỗ trợ từ địa phương. Tuy nhiên, sự kiên nhẫn và quyết tâm không ngừng của anh cùng vợ đã giúp họ xây dựng xưởng gốm và phục dựng nghề gốm cổ quê hương đã bị thất truyền.

Quy mô của xưởng gốm hiện vẫn rất nhỏ, sản xuất ngay tại nhà và gần khu dân cư, gặp khó khăn trong vận chuyển và môi trường sản xuất. Anh Vang khát khao mở rộng quy mô làng nghề để thuận lợi hơn trong sản xuất và trưng bày sản phẩm, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương.

Sản phẩm gốm Bồ Bát. Ảnh: Đ.H

Sản phẩm gốm Bồ Bát. Ảnh: Đ.H

Dẫu gặp nhiều khó khăn nhưng sự kiên nhẫn và nỗ lực không ngừng của anh đã thành công, tạo nên bước ngoặt trong hồi sinh làng gốm Bồ Bát.

Gốm Bồ Bát không chỉ nổi danh trong nước mà còn vươn ra thị trường quốc tế như Mỹ, Nhật Bản và Pháp. Điều này không chỉ mang lại danh tiếng cho làng gốm Bồ Bát mà còn giúp địa phương phát triển kinh tế và du lịch. Sự hồi sinh của làng gốm này đã tạo điều kiện thuận lợi để nhiều người dân địa phương tại huyện Yên Mô, Ninh Bình có việc làm ổn định.

Nghệ nhân Phạm Văn Vang cho rằng, để duy trì bản sắc riêng của gốm Bồ Bát, sản phẩm cần phải cao cấp về chất lượng và mang trong mình tinh hoa văn hóa đặc trưng của Việt Nam. Với đặc điểm độc đáo của đất sét Bồ Di, những sản phẩm gốm Bồ Bát được tạo ra tinh xảo và độc đáo, thu hút sự quan tâm của đông đảo khách hàng. Những bát đĩa, chén, dĩa trang trí và các tác phẩm nghệ thuật từ gốm Bồ Bát đã trở thành biểu tượng văn hóa và nghệ thuật độc đáo của Việt Nam.

Nghệ nhân Phạm Văn Vang bên sản phẩm gốm Bồ Bát. Ảnh: Đ.H

Nghệ nhân Phạm Văn Vang bên sản phẩm gốm Bồ Bát. Ảnh: Đ.H

Ngoài chất lượng sản phẩm, một yếu tố quan trọng giúp làng gốm Bồ Bát phục hồi chính là nguồn nguyên liệu đất sét Bồ Di, còn được gọi là đất non sương. Loại đất này vô cùng quý hiếm và tạo ra dòng men trắng số 1 hiện nay. Đặc điểm độc đáo của đất sét Bồ Di giúp làng gốm Bồ Bát tiết kiệm từ 30 -50% thời gian và năng lượng trong quá trình sản xuất, từ đó tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và cạnh tranh trên thị trường.

Nhờ những thành tựu đáng kể và sự kiên định của nghệ nhân Phạm Văn Vang, làng gốm Bồ Bát đang nổi lên như một biểu tượng cho sự hồi sinh và khởi sắc của nghệ thuật gốm truyền thống Việt Nam. Cuộc sống của người dân Bạch Liên đã được cải thiện đáng kể nhờ vào nghề gốm. Cộng đồng địa phương tin rằng, gốm Bồ Bát sẽ tiếp tục phát triển dưới sự hướng dẫn và tài năng của nghệ nhân Phạm Văn Vang.

Theo các nhà khảo cổ học, di chỉ Mán Bạc thuộc giai đoạn văn hóa cuối Phùng Nguyên và đầu Đồng Đậu, với niên đại gần 4.000 năm, và đã chôn chung 30 di hài người Australoid và Mongoloid. Điều này cho thấy đã có sự chung sống lâu dài giữa hai dân tộc này trên đất Việt Nam.

Làng gốm Bồ Bát đã từng là ngôi làng cụ tổ, ghi dấu truyền thống nghề gốm đặc sắc của Việt Nam.

Với những nỗ lực hồi sinh và niềm đam mê không mệt mỏi của những người thợ gốm, làng gốm Bồ Bát đang tỏa sáng trở lại, vươn lên như một biểu tượng văn hóa và nghệ thuật độc đáo của một vùng đất.

Trong cuộc trao đổi với báo Tiền Phong, ông Nguyễn Cao Tấn, Phó Giám đốc Sở Du lịch Ninh Bình, nhấn mạnh việc phục dựng làng gốm cổ Bồ Bát đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế địa phương và bảo tồn di sản văn hóa liên quan đến kinh tế du lịch.

Tuy nhiên, việc này đòi hỏi một nguồn đầu tư lớn cho việc nghiên cứu và bảo tồn, cũng như cần các chính sách linh hoạt và quỹ đất để phục hồi làng cổ Việt cùng những làng nghề lân cận có liên quan đến di sản văn hóa phi vật thể trong khu vực này.

Ông Tấn nhấn mạnh, làng gốm Bồ Bát đã có vai trò quan trọng trong lịch sử và văn hóa của Việt Nam. Vào năm 1999, các nhà khảo cổ Việt Nam đã tiến hành khai quật lần đầu tiên tại di chỉ Mán Bạc tại làng gốm Bồ Bát và tìm thấy 5 mộ táng và 6 cá thể. Trong lần khai quật thứ hai, họ đã đào được 10 mộ với 11 cá thể.

Trong quá trình khai quật, các nhà khảo cổ đã thu thập được nhiều hiện vật quý giá như 39 chiếc rìu, 8 đục, 6 chuỗi hạt, 10 mảnh vòng, 2 bàn đập vải từ vỏ cây, 3 nồi gốm, 1 bát đồng, 3 hiện vật hình nấm còn khá nguyên vẹn... và hàng trăm kilogam vỏ nhuyễn thể.

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Tự hào là mảnh đất “phên dậu” của đất nước, nơi có các di tích lịch sử oai hùng như: Pháo đài Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị cùng các danh lam thắng cảnh nổi tiếng, thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) trỗi mình sau cuộc chiến biên giới 1979, trở thành điểm đến của du khách muôn phương.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

…Từ Nam Sudan, đất nước vẫn còn non trẻ và đầy rẫy bất ổn này, chúng tôi thấy những gam màu ảm đạm: màu vàng của sa mạc, màu nâu của bùn đất, màu đen của những khẩu súng và đặc biệt là hình ảnh vô cùng đáng thương của những đứa trẻ chăn bò.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.

Người gieo ánh sáng yêu thương

Người gieo ánh sáng yêu thương

Bị khiếm thị từ nhỏ, song Lã Minh Trường, sinh năm 2001, nguyên Chủ nhiệm Câu lạc bộ Sinh viên khuyết tật TP Hà Nội, đã vươn lên trong học tập, thi đấu thể thao và tích cực hoạt động công tác xã hội trong 5 năm qua.