Người làm thuyền composite ở Lung Leng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Với các dân tộc bản địa Kon Tum nói riêng và Tây Nguyên nói chung sống ven sông, hồ, thuyền độc mộc không chỉ là chiếc cầu nối đôi bờ mà còn giúp bà con vận chuyển hàng hóa, nông sản, đánh bắt cá. Tuy nhiên, trước thực trạng gỗ làm thuyền độc mộc truyền thống ngày càng khan hiếm, chi phí đắt đỏ, lại nhanh hỏng, anh Bùi Như Nhân ở thôn Lung Leng, xã Sa Bình, huyện Sa Thầy đã tìm hiểu, học hỏi và làm ra sản phẩm thuyền bằng vật liệu composite phục vụ bà con.

Do cuộc sống gia đình lúc đó khó khăn, học xong lớp 9, anh Bùi Như Nhân (sinh năm 1983, tại huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai) đành bỏ học giữa chừng để đi làm, kiếm thêm thu nhập phụ giúp gia đình. Đến năm 1998, anh theo gia đình lên định cư tại thôn Lung Leng, xã Sa Bình, huyện Sa Thầy.

Ngôi nhà của anh nằm sát bờ sông Sê San thơ mộng, gần di chỉ Lung Leng nổi tiếng. Xung quanh vườn nhà, gia đình anh trồng nhiều loại cây ăn quả như mít mật, sầu riêng, dừa, vừa lấy bóng mát vừa thu hoạch được trái cây. Nhà gần sông nước, khi mới lên anh đã học hỏi và đóng thuyền bằng gỗ để đi lại và chuyên chở hàng hóa. Tuy nhiên, sau một thời gian sử dụng, thuyền gỗ thường bị rò rỉ nước và bị thủng nên anh tìm kiếm vật liệu phù hợp để khắc phục tình trạng trên.

Khuôn viên phân xưởng sản xuất thuyền composite của anh Bùi Như Nhân tại thôn Lung Leng, xã Sa Bình, huyện Sa Thầy. Ảnh: N.B

Khuôn viên phân xưởng sản xuất thuyền composite của anh Bùi Như Nhân tại thôn Lung Leng, xã Sa Bình, huyện Sa Thầy. Ảnh: N.B

Năm 2006, cơ duyên anh biết đến vật liệu composite khi thấy một người bạn dùng vật liệu này để làm khuôn thạch cao, làm những đồ vật trang trí. Anh nghĩ rằng, vật liệu này phù hợp cho nhu cầu của mình. Nói là làm, sau khi về nhà, anh mua vật liệu composite, sau đó bắt tay vào gia công, sửa chữa chiếc thuyền gỗ bị hư hỏng của mình và cho kết quả thành công ngoài mong đợi.

Tìm hiểu thông tin, học hỏi trên các trang mạng internet cùng với sự sáng dạ, khéo léo và kiên trì, năm 2007, anh Nhân cho ra đời chiếc thuyền composite đầu tiên của mình. Lúc đầu, mục đích của anh chỉ là phục vụ cho nhu cầu của gia đình. Sau nhiều người dân quanh vùng thấy được những ưu việt của thuyền composite nên đặt hàng anh làm.

Sau gần 16 năm hành nghề, anh Nhân làm chủ quy trình sản xuất thuyền composite và có thể làm được nhiều mẫu mã khác nhau, tăng thêm chức năng cho thuyền, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.

Tháo vỏ thuyền ra khỏi khuôn đúc. Ảnh: NB
Tháo vỏ thuyền ra khỏi khuôn đúc. Ảnh: NB

Anh Nhân chia sẻ: Ngày trước, người dân ở đây gần như chỉ sử dụng thuyền độc mộc để đi lại. Thuyền độc mộc được làm từ cây gỗ to, chắc và chịu được nước. Tuy nhiên, hiện nay, cây to dùng làm thuyền không còn nhiều và chi phí làm ra chiếc thuyền độc mộc cũng rất cao nên người dân chuyển sang dùng thuyền composite hoặc thuyền tôn là chính.

Ưu điểm của thuyền composite là nhẹ, chắc, bền, chịu hóa chất, không sét gỉ, chống ăn mòn, chịu va đập và ma sát tốt. Việc thiết kế, tạo dáng dễ dàng và đa dạng. Bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa chi phí thấp, tuổi thọ cao, giá cả cạnh tranh. Thuyền composite dễ dàng sử dụng, chèo nhẹ nhàng, nếu dùng động cơ thì lại ít tốn nhiên liệu hơn so với thuyền gỗ cùng kích cỡ.

Để đáp ứng nhu cầu của người dân, anh Nhân đã sáng tạo ra nhiều mẫu thuyền với kích thước và hình dáng khác nhau. Đặc biệt, có mẫu giống với thuyền độc mộc truyền thống để khi sử dụng, bà con cảm thấy gần gũi.

Trao đổi về quy trình làm thuyền, anh Nhân cho hay: Để cho ra một chiếc thuyền composite thành phẩm, quá trình làm phải trải qua 5 bước: Tạo mẫu, đổ khuôn, chỉnh sửa khuôn, nhân bản mô hình từ khuôn và hoàn tất sản phẩm. Các thành phần nguyên liệu làm thuyền bao gồm: chất chống dính, nhựa composite, chất đông cứng, sợi thủy tinh, ống nhựa PVC, sơn và xăng thơm. Khó nhất trong quá trình sản xuất thuyền nhựa composite là khâu quét nhựa, trải tấm sợi thủy tinh. Công đoạn này đòi hỏi người thực hiện phải tỉ mỉ, cẩn thận và có kinh nghiệm tốt để thân thuyền có độ dày đồng nhất, không bị phô, không bị lòn khí và dễ gia công cho giai đoạn tiếp theo.

Xưởng sản xuất thuyền của anh Nhân nằm cạnh nhà. Công việc sản xuất chủ yếu do anh và người em trai tên Nghĩa đảm trách. Khi nào nhiều đơn hàng hoặc khách hàng yêu cầu giao gấp, anh mới thuê thêm người để làm những việc lặt vặt như: chà nhám, cắt những phần dư, quét chất chống dính lên khuôn.

Không những chế tạo vỏ thuyền composite, anh Nhân còn nghiên cứu, độ chế các động cơ cho thuyền từ những máy móc cũ, gia công cánh quạt chân vịt, cần lái cho phù hợp với từng loại thuyền khác nhau.

Hiện nay, thuyền composite của anh Nhân không chỉ bán cho bà con trong tỉnh mà còn được nhiều nơi trong nước đặt mua. Có những khách hàng ở tận Lào Cai cũng đặt anh làm và giao ra cho họ vì mẫu mã đẹp và giá cả phù hợp. Trung bình mỗi tháng, anh bán ra thị trường khoảng 5 chiếc thuyền composite các loại, giá thành vỏ thuyền dao động từ 6-12 triệu đồng/chiếc. Nếu gắn động cơ thì người mua phải bỏ thêm từ 5-15 triệu đồng/chiếc (tùy thuộc vào chủng loại và công suất động cơ). Sau khi trừ hết chi phí, mỗi chiếc anh lãi khoảng 30%.

“Nhiều người biết đến mình và tin tưởng vào sản phẩm của mình rồi. Tuy nhiên, việc sản xuất cũng gặp những khó khăn nhất định như: Vị trí xưởng nằm xa xôi, phương tiện di chuyển chủ yếu bằng thuyền nên rất bất tiện trong việc vận chuyển nguyên vật liệu, máy móc, đặc biệt là mùa nước cạn. Bên cạnh đó, nguồn vốn cũng có hạn nên chưa có điều kiện mua thêm nhiều máy móc phục vụ sản xuất. Mình mong muốn có điều kiện sẽ dời xưởng sản xuất qua phía bên kia sông, thuộc địa phận xã Ia Chim, thành phố Kon Tum để thuận lợi hơn trong việc sản xuất kinh doanh và cho các con học hành”-anh Nhân bộc bạch.

Trải nghiệm chèo thuyền composite có kiểu dáng giống thuyền độc mộc do anh Nhân làm ra. Ảnh: N.B

Trải nghiệm chèo thuyền composite có kiểu dáng giống thuyền độc mộc do anh Nhân làm ra. Ảnh: N.B

Anh A Tim (một khách hàng của anh Nhân tại thôn Lung Leng, xã Sa Bình, huyện Sa Thầy) cho biết: Trước đây, tôi dùng thuyền độc mộc đánh bắt cá. Qua một thời gian sử dụng thuyền hư hỏng nên mua chiếc thuyền composite của anh Nhân sản xuất. Thuyền composite khoang rộng, thuận tiện để đồ, lướt êm ái và ít tốn nhiên liệu hơn, thuận tiện cho đánh bắt cá hơn.

Thử ngồi lên chiếc thuyền composite do anh Nhân sản xuất có kiểu dáng giống thuyền độc mộc, tôi thấy thuyền lướt nhẹ, chèo không tốn nhiều sức và chỗ ngồi rộng, cảm giác rất an toàn.

Ngoài việc làm thuyền để bán, gia đình anh Nhân còn có 5 chiếc thuyền với kích cỡ khác nhau để phục vụ chở khách du lịch và nông sản cho người dân trong vùng. Bận rộn là thế nhưng khi có ai gọi chở hàng hóa, nông sản, chở khách du lịch, tham gia công tác cứu hộ, cứu nạn tại địa phương là anh đi ngay.

Trong thời gian tới, anh dự định sẽ tạo thêm nhiều kiểu dáng mới phù hợp với đặc điểm từng vùng miền khác nhau, phát triển thêm thị trường và mở rộng cơ sở sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, đáp ứng đa dạng nhu cầu của khách hàng.

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.