Người cuối cùng lưu giữ bờ xe nước

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Bờ xe nước sông Trà là biểu tượng độc đáo của người Quảng Ngãi từ những năm giữa thế kỷ 18. Không chỉ cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp, đây còn là công trình công phu, mang tính mỹ thuật cao, đã đi vào thi ca, nhạc họa.

Dù đã hoàn thành “sứ mệnh lịch sử” cách đây gần 30 năm, nhưng ký ức về một bờ xe nước, công trình “dẫn thủy nhập điền” thuở nào vẫn còn được ông Mai Văn Quýt (79 tuổi, trú thôn Thống Nhất, xã Tịnh Ấn Tây, thành phố Quảng Ngãi) tái hiện, phục dựng và trưng bày ở nhiều nơi.

Dẫn thủy nhập điền

Ông Mai Văn Quýt - một trong những người cuối cùng ở Quảng Ngãi còn giữ được kỹ thuật làm bờ xe nước. Ảnh: Nguyễn Ngọc

Ông Mai Văn Quýt - một trong những người cuối cùng ở Quảng Ngãi còn giữ được kỹ thuật làm bờ xe nước. Ảnh: Nguyễn Ngọc

Hơn 30 năm trước, du khách đi dọc miền Trung, ngang qua bờ sông Trà Khúc dễ dàng bắt gặp những guồng xe nước nặng trĩu, cần mẫn suốt ngày đêm mang nước sông tưới tắm cho những cánh đồng màu mỡ mà không phải tiêu hao một giọt nhiên liệu nào. Mỗi bờ xe nước có khoảng 10 -12 bánh xe, cao 12m, dài 20m.

Từ tháng 8 âm lịch, mùa mưa lũ bắt đầu, bờ xe nước được tháo dỡ đưa lên bờ để vừa tu sửa và cũng để tránh bị lũ cuốn trôi. Qua mùa lũ, bờ xe nước lại được đưa xuống sông, lắp ráp để cung cấp nước tưới cho ruộng đồng. Để làm một bờ xe nước có 9 hoặc 10 bánh, mỗi bánh xe có đường kính 4m, tưới cho khoảng 70ha phải mất 4.000-5.000 cây tre và vô số dây rừng.

Để có bờ xe tưới nước cho ruộng lúa vào mùa xuân, mùa hạ, từ tháng 6 - 7, những người thợ bờ xe nước phải kết bè tre ngược sông Trà tìm đến những bản làng đồng bào dân tộc Hrê ở Sơn Hà, Ba Tơ mua từng cây tre, chặt kết lại thành bè thả trôi trên sông về xuôi. Họ chọn những gò cao để tập kết tre, rồi đêm ngày đan, vót.

Bờ xe nước trên sông Trà. Ảnh Tư liệu

Bờ xe nước trên sông Trà. Ảnh Tư liệu

Thường sau 23/10 âm lịch, khi khảo sát được khu vực đặt bờ xe nước ở cuối sông Trà. Những toán thợ bắt đầu dùng vồ để đóng cọc tre làm bờ cừ cho nước dâng lên.

Trong ký ức của các thợ xe nước, nghề làm bờ xe cực nhọc và đòi hỏi kỹ thuật thủ công khá cao. Cái khó nhất là chọn được địa điểm và xây dựng bờ cừ. Bờ cừ phải xây theo hình chữ V, để nước được dẫn dồn về một chỗ hẹp tạo dòng chảy mạnh. Ngay tại điểm nước chảy mạnh sẽ đặt bờ xe.

Mỗi bánh xe được buộc hàng trăm ống tre, đặt nghiêng một góc nhất định. Khi bánh xe quay, các ống tre này đong đầy nước. Lực chảy của nước do việc đắp bờ cừ, sẽ đẩy bánh xe tiếp tục quay tròn, đưa ống nước lên cao và trút ra máng, dẫn nước đến đồng ruộng.

Điểm khác biệt giữa bờ xe nước Quảng Ngãi với những nơi khác là số bánh xe. Bờ xe ở Quảng Ngãi có đến 10-12 bánh, như một cỗ máy còn cọn nước, miền núi phía Bắc chỉ có 1 bánh xe. Trên sông Vệ và sông Trà Khúc từng có hơn 100 bờ xe nước.

Bờ xe nước được hình thành trên sông Trà Khúc và tồn tại hàng trăm năm qua. Trở thành một biểu tượng của người dân Quảng Ngãi về tính cần cù, sáng tạo, chịu đựng mưa nắng.

Ký ức về những vòng quay

Bờ xe nước được hình thành trên sông Trà Khúc và tồn tại hàng trăm năm qua. Trở thành một biểu tượng của người dân Quảng Ngãi về tính cần cù, sáng tạo, chịu đựng mưa nắng.

Ngày nay, dù bờ xe nước bị xóa bỏ gần 30 năm, thay thế bằng những công trình hiện đại hơn, nhưng những ký ức về công trình “dẫn thủy nhập điền” ngày nào vẫn vẹn nguyên trong tâm trí ông Mai Văn Quýt và nhiều người dân Quảng Ngãi.

Nhà nằm cạnh sông Trà, tuổi thơ của ông Quýt gắn liền với những vòng quay của bờ xe nước. Ông kể, trước những năm 1990, khi chưa có công trình thủy lợi Thạch Nham, người dân các vùng hạ du sông Trà Khúc sản xuất nông nghiệp đều nhờ vào nguồn nước của sông Trà thông qua các bờ xe nước.

Sau mỗi mùa lũ, người dân trong vùng lại lập ra một nhóm “trưng cử” góp tiền (dạng cổ đông ngày nay) để làm bờ xe nước. Sau đó, nhóm này sẽ làm thủ tục xin hương lý, đồng thời cấp kinh phí cho nhóm thợ xe (gồm 7 thành viên, được dẫn đầu bởi 1 đoàn trưởng) có nhiệm vụ thi công, xây dựng, vận hành bờ xe. Khi mùa vụ hoàn tất, nhóm “trưng cử” được chia theo tỉ lệ 6 phần, còn nhóm thợ được chia 4 phần.

“Ông nội, rồi đến ba tôi đều làm đoàn trưởng, đến đời tôi là đời thứ ba. Từ năm 18 tuổi, tôi đã theo cha vót tre, chẻ nan. Đến giờ tôi vẫn nhớ như in những tháng ngày cùng cha đưa nước từ sông Trà về đồng ruộng để phục vụ tưới tiêu. Thời ấy, cha ông là một ông “trùm” (người chỉ huy làm bờ xe nước) có tiếng ở Quảng Ngãi”, ông Quýt nhớ lại.

Nhiều năm gắn bó với bờ xe nước và đảm nhiệm đoàn trưởng, ông Quýt có nhiều kỷ niệm về những lần chia nước cho bà con. Có những năm, nước vào ruộng ít, mùa màng thất bát, ông Quýt không dám ló mặt ra đồng, sợ dân “hỏi tội”. Lại có năm, nước vừa đưa lên ruộng mấy ngày thì gặp lũ tiểu mãn, bờ xe bị cuốn trôi mất mấy bánh xe, lúc đó cả làng xúm lại cùng sửa chữa và làm các bánh khác bù vào, cho kịp mùa vụ.

Khi công trình thủy lợi Thạch Nham được đưa vào vận hành, bờ xe nước chính thức kết thúc “sứ mệnh lịch sử”. Ông Quýt cũng như những người con Quảng Ngãi cảm thấy hụt hẫng vì mất đi một hình ảnh gắn liền với tuổi thơ.

Cũng chính từ đó, mà ông đã âm thầm gìn giữ bờ xe nước - biểu tượng một thời của Quảng Ngãi - theo cách riêng. Không còn là những bờ xe đồ sộ, ông chuyển hướng sang làm những mô hình bờ xe thu nhỏ, đường kính từ 2-4m đặt tại các nhà hàng, khách sạn, quán cà phê…

Mỗi bờ xe mô hình như thế có từ 2-4 bánh xe, tùy theo nhu cầu người sử dụng. Về nguyên lý, cách thức làm bờ xe mô hình vẫn giống hệt bờ xe ngoài thực tế. Người thợ phải làm sao cho bánh xe cân bằng, khi vận hành không bị lỗi, vẫn có thể múc nước và quay đều.

“Cái khác ở đây là một số nguyên liệu dùng làm bờ xe. Hồi xưa các vật liệu chưa có nên phần lớn bờ xe được buộc lại bằng dây lạt, dây mây, còn tôi làm mô hình thì làm bằng dây kẽm, dây đồng, dây cước... buộc các chi tiết của bánh xe lại với nhau để tăng tuổi thọ sản phẩm. Còn nếu đem bờ xe đặt chỗ nước chảy vừa đủ mạnh, nó vẫn quay đều đặn”, ông Quýt nói.

Đã có nhiều nhà hàng, quán cà phê, khu du lịch ở Quảng Ngãi, và cả ở Bình Định, Phú Yên, Đà Nẵng đặt ông Quýt làm bờ xe đem về trưng bày. Hiện ông đang làm một mô hình bờ xe nước có đường kính 2m cho Tỉnh Đoàn Quảng Ngãi.

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Lê Hồng Khánh, ông Mai Văn Quýt là một trong những người cuối cùng ở tỉnh này còn lưu giữ được kỹ thuật, cách làm truyền thống về bờ xe nước.

Nỗi lo thất truyền

Đối với ông Quýt, nỗi lo lớn nhất khiến ông luôn trằn trọc, đó là sau này những bánh xe nước dù là mô hình cũng sẽ bị mai một và thất truyền. “Tôi vẫn thường tâm sự với thế hệ con cháu rằng, đây là cái hồn, ký ức của cha ông để lại. Tuy nhiên, tôi nghĩ cái nghề này sẽ không lưu giữ được bao lâu nữa, chắc rồi cũng theo tôi về với cát bụi…”, ông Quýt trầm ngâm nói.

Theo NGUYỄN NGỌC (TPO)

Có thể bạn quan tâm

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Trong hai năm 2024-2025, thủ phủ Tây Nguyên trúng đậm cà phê. Chỉ tính riêng huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông cũ), các lão nông đã sắm 1.000 ô tô trong năm 2024. Xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi giáp Lào và Campuchia) cũng chung niềm vui ấy...

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Gìn giữ kỷ vật tri ân

Gìn giữ kỷ vật tri ân

(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ hơn 4.000 tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật có giá trị về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; trong đó, có gần 300 hiện vật, tư liệu, hình ảnh về các mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ ở vùng đất Bình Định trước đây.

Vào rừng... chờ ươi bay

Vào rừng... chờ ươi bay

Sau 4 năm, khi những cánh rừng già miền núi TP.Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chuyển mình vào mùa ươi chín, hàng ngàn người dân lại có một cuộc 'di cư' tạm thời vào rừng sâu chờ 'lộc trời' rơi xuống để nhặt.

null