Ở Quảng Trị, ven hồ Thuỷ điện Rào Quán có một cây cô đơn. Chính xác, tên của nó là phong hương, nhưng dân địa phương thường gọi là sau sau. Chúng mọc nhiều, thậm chí tạo nên một rừng sau sau ở mạn tây bắc hồ. Còn cây này, không hiểu vì sao lại đứng lẻ loi, một mình đứng giữa không gian mênh mông, ngắm nhìn làn nước màu ngọc bích và cánh đồng điện gió phía xa.
Chính bởi cái sự bướng bỉnh này, nó trở thành địa điểm yêu thích của giới trẻ Quảng Trị. Họ tìm đến đây để tận hưởng khoảnh khắc yên bình đến lạ bên cây cô đơn. Không biết có phải vì ghen tỵ hay không, một kẻ nào đó đã tìm cách đốn hạ nó, dùng rựa lột vỏ, chặt sâu vào thân cây.

Nhiều người xót xa, nghĩ rằng cây sẽ chết. Nhưng không. Nhờ vào sự chăm sóc của nhóm tình nguyện và sức sống mãnh liệt, cây cô đơn xanh tốt trở lại, tiếp tục vươn mình trong nắng gió, bền bỉ sinh tồn lúc nước ngập ngang thân hay mùa khô đất cằn nứt nẻ.
Đến Hướng Hóa, băng qua con đường nhỏ đầy sỏi đá, tôi đến bên cây cô đơn. Chạm tay vào thân cây thô ráp vẫn còn vết sẹo lớn và ngước nhìn lên tán lá xanh mướt, đột nhiên tôi cảm thấy cây sau sau này sao giống người Quảng Trị đến thế.
Bao đời nay con người nơi đây vẫn bám trụ ở mảnh đất từng được mệnh danh là “Ô châu ác địa”, vừa hứng chịu gió Lào khắc nghiệt, vừa đối mặt với nắng cháy bão giông. Chưa hết, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, họ lại oằn mình với bom đạn chiến tranh.
Nói đến bom đạn, không nơi nào khốc liệt như mảnh đất Vĩnh Linh. Là địa đầu miền Bắc xã hội chủ nghĩa sau Hiệp định Geneve 1954 lấy vĩ tuyến 17 chạy dọc sông Bến Hải làm ranh giới phân định tạm thời hai miền Nam - Bắc Việt Nam, Vĩnh Linh trở thành mục tiêu đánh phá bởi mục tiêu đưa mảnh đất chưa đầy 820 km2 nằm ở bờ bắc sông Bến Hải “trở về thời kỳ đồ đá” của đế quốc Mỹ. Trong giai đoạn 1965-1972, kẻ thù đã trút xuống nơi đây hơn nửa triệu tấn bom, đạn. Trung bình, mỗi người dân Vĩnh Linh phải hứng chịu 7 tấn bom, đạn các loại.

Thế nhưng đế quốc Mỹ đã đánh giá thấp sức mạnh của dân Vĩnh Linh, Quảng Trị. Với quyết tâm sắt đá “một tấc không đi, một ly không rời”, không sống được ở trên thì ta xuống dưới, giặc phá nhà thì ta đào hầm, một hệ thống hầm hào, địa đạo rộng khắp đã hình thành sâu dưới lòng đất.
Vịnh Mốc (xã Vĩnh Thạch, Vĩnh Linh) là ngôi làng nằm sát bờ biển, cách thành phố Đông Hà - trung tâm tỉnh lỵ Quảng Trị khoảng 38km. Hiểu rõ vị trí trọng yếu trong cuộc kháng chiến, vừa là đầu cầu giới tuyến miền Bắc, vừa là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, cửa ngõ dẫn vào chiến trường Bắc Quảng Trị, quân và dân Vịnh Mốc bắt đầu công cuộc đào địa đạo.
Khi tôi đặt chân tới Vịnh Mốc, dù đã qua hơn nửa thế kỷ, nhiều hố bom còn đó, trên mặt đất. Lòng chảo khổng lồ nó tạo ra cho thấy mức độ tàn phá khủng khiếp. Thế nhưng, dưới lòng đất, địa đạo vẫn tồn tại nguyên vẹn, bướng bỉnh và đầy thách thức với chiến tranh, cũng như cả thời gian.
Cụ Hồ Văn Triêm là người từng tham gia đào địa đạo Vịnh Mốc. Với tư cách Xã đội phó Vĩnh Thạch, cụ trực tiếp chỉ đạo người dân phối hợp với lực lượng vũ trang đào hầm theo Nghị quyết của khu ủy Vĩnh Linh. Ở tuổi 89, cụ vẫn còn minh mẫn và ký ức năm xưa vẫn sống động trong cụ.

“Những ngày ấy ai cũng chung tay góp sức”, cụ Triêm kể với tôi, “Chúng tôi chia làm bốn đội, mỗi đội lại có đội trưởng, đội phó và thư ký chấm công, khen thưởng. Các đội thay phiên nhau đào liên tục cả ngày lẫn đêm. Đàn ông thì đào, phụ nữ thì gánh đất chuyển đi, còn ông già bà cả đan sọt tre, lấp lá ngụy trang. Ban ngày vừa trồng trọt sản xuất, vừa đào hầm, ban đêm chuyển đất ra biển”.
Trong khoảng hai năm, từ 1965 đến 1967, với 18.000 ngày công, quân dân Vịnh Mốc đã đào và vận chuyển 6.000m3 đất đá, hoàn thành công trình kỳ vĩ gồm 114 địa đạo lớn, nhỏ. Tổng chiều dài đường hầm lên đến 1.701m, kết cấu 3 tầng và 13 cửa (6 cửa thông lên đồi, 7 cửa thông ra biển).
Quá trình đào hầm rất gian nan. Càng đào sâu càng tối, dụng cụ lại thiếu. Việc thông hầm từ hai hướng đào khác nhau cũng là một vấn đề. Tuy nhiên “khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Theo cụ Triêm, mọi người chẻ tre làm đuốc, lấy mảnh bom làm cuốc xẻng, và lắng nghe tiếng vọng để tìm nhau giữa lòng đất. Cấu trúc địa đạo cũng rất sáng tạo, với giếng đào, cửa thông thoáng khí cùng những con lạch nhỏ thoát nước. Giặc ném bom khoan, ta lại đào sâu hơn nữa, với đường trượt để có thể thoát xuống nhanh nhất.
Đến Quảng Trị mới biết ở đây cũng có cả kho tàng truyện Trạng, gọi là truyện Trạng Vĩnh Hoàng. Trong đó có chuyện Địa đạo xuyên lục địa, kể rằng sau một hồi đào bới quyết liệt, đất vỡ ra bỗng thấy toán người, ai cũng râu ria xồm xoàm cả. Cả làng mừng quá, vì đã đào… sang tận bên kia bán cầu, nơi có nước Cuba anh em và gặp con cháu Fidel Castro.
Vậy là địa đạo Vịnh Mốc trở thành thế giới trong lòng đất lửa. Nơi này có đủ không gian để người dân Vịnh Mốc ăn, ở, sinh hoạt, cũng bao gồm cả nhà trẻ, trạm cứu thương, nhà thông tin, nhà dân quân trực gác, kho chứa hàng và hội trường... Tất cả làm nên kỳ tích gần 2.000 ngày đêm tồn tại dưới lòng đất, không một ai bị thương tích. Họ không chỉ vừa duy trì cuộc sống thường nhật, vừa có thể trồng trọt, chiến đấu vừa trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến.
Cụ Triêm tự hào cho biết, là lực lượng dân quân tại chỗ, cụ cùng những đồng đội khác có nhiệm vụ vận chuyển lương thực, thực phẩm và vũ khí để tiếp sức bảo vệ đảo Cồn Cỏ, chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển. Bên cạnh đó, luôn sẵn sàng nghênh chiến máy bay địch.
Một lần hiếm hoi cụ Triêm tạm rời trận địa chính là đêm cụ Nghiên, vợ cụ, sinh người con thứ ba. Bà Hồ Thị Hường là một trong 17 người được sinh ra trong nhà hộ sinh của địa đạo. Hồi ấy thiếu thốn đủ thứ, trẻ sinh ra thì lấy dao cắt rốn, rồi quấn trong quần áo cũ. Lớn lên cũng chỉ khoai sắn thay cơm, lúc no lúc đói, vậy mà ai cũng khỏe mạnh.
Như cụ Triêm kể, tuy gian khổ nhưng tinh thần ai cũng phấn chấn. Trong địa đạo mọi người thường tập trung ở nhà hội trường, cùng nhau ca hát át tiếng bom. Mỗi lần có tin chiến thắng báo về, tất cả lại rộn ràng hăng hái, tin tưởng cuộc chiến nhất định thắng lợi.
Nói về Quảng Trị, sức chịu đựng, nghị lực phi thường của con người mảnh đất thực sự gây kinh ngạc. Tuy nhiên một phẩm chất đáng nể khác của họ chính là sự lạc quan, tìm ra sự tích cực nhất trong gian khổ để không bao giờ thôi hy vọng.
Tiếng cười lạc quan chính là một phần làm nên sức sống mãnh liệt, tôi luyện chất thép của dân Quảng Trị. Qua những loạn ly, chia cắt, binh đao, bom đạn, họ vẫn kiên cường và không nguôi khát vọng vươn lên, tựa cây sau sau ven hồ Rào Quán, bền bỉ sinh tồn mãi mãi xanh tươi.
Theo THANH HẢI (TPO)