Mùa săn cá thu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Ngư dân cho rằng vùng biển Quảng Trị có thức ăn phù hợp, chế độ thủy triều lên xuống hai lần trong ngày cho nên con cá thu rất thích, ở lại sinh sống lâu hơn, từ cuối mùa thu năm trước đến cuối mùa xuân năm sau. Đó cũng là thời gian cá thu cho thịt ngon nhất và những đoàn tàu đánh cá của dòng họ Bùi ở thị trấn Cửa Việt, huyện Gio Linh, lại ra khơi với hy vọng trở về cùng những mẻ lưới đầy.
Một chiếc tàu vỏ thép đánh bắt cá của dòng họ Bùi.
Một chiếc tàu vỏ thép đánh bắt cá của dòng họ Bùi.
Cá… xách tay
Đúng ba giờ chiều của một ngày giữa tháng 2, điện thoại của tôi đổ chuông. Từ ngư trường Cồn Cỏ, ngư dân Bùi Còng thông báo chuyến tàu săn cá thu của anh em dòng họ Bùi đang trên đường mang gần 2,5 tấn cá tươi ngon trở về đất liền. Anh Còng nói ba giờ sau tàu sẽ cặp bến ở cảng mới của thị trấn Cửa Việt. Tất nhiên tôi không trễ hẹn vì muốn được tận mắt chứng kiến những con cá thu ngon nhất mới được khai thác. Thế nhưng có nhiều người còn nhanh hơn, họ đã có mặt từ trước để mua ngay những con cá thu đặc biệt rồi cung cấp lại cho những gia đình, nhà hàng muốn có những con cá thu tươi còn chưa ướp đá.
Khệ nệ bưng từng con cá thu tươi óng ánh từ hầm chứa của tàu lên bờ cung cấp khách hàng, anh Bùi Còng giao tôi hai con cá thu trắng to, có buộc dây làm dấu ở phần đuôi để khỏi lẫn vào các con cá thu khác mà trước đó anh mua giúp từ chủ tàu với giá 210 nghìn đồng/kg (loại cá này ở chợ bán gần 300 nghìn đồng/kg). Anh vừa bốc cá vừa kể, cá thu được ngư dân đi biển chia thành bốn loại. Ngon nhất là cá thu trắng, có da mầu trắng, rồi đến cá thu chấm vì có nhiều chấm nhỏ ở da, tiếp đến là cá thu ngày có trọng lượng rất lớn, và cuối cùng là cá thu đen, thịt đậm mầu và da sậm. Theo quan niệm của các ngư dân, cá thu chất lượng phải bảo đảm hai yếu tố ngon và tươi. Thông thường mỗi chuyến khai thác xa bờ mất từ năm đến sáu ngày, khai thác được cá đầy hầm chứa, tàu liền trở về đất liền, nhưng có chuyến phải hơn 10 ngày mới đầy cá. Cá thu có tập tính sinh sống, kiếm ăn cách xa bờ từ khoảng 30 km trở ra. Ngay trong ngày đầu ra khơi, nhiều tàu đã quăng lưới bắt được cá thu đưa lên hầm ướp đá giữ cho cá được tươi. Vì vậy những con cá hội đủ hai yếu tố ngon và tươi nhất là cá mắc lưới ngày cuối cùng của chuyến đi, khi mắc lưới cá còn sống, không cần phải ướp đá vì tàu đã vào rất gần bờ.
 Anh Bùi Còng với sản phẩm cá thu mới đánh bắt.
Anh Bùi Còng với sản phẩm cá thu mới đánh bắt.
Ai sẽ mua được những con cá mắc lưới ngày sau cùng này? tôi hỏi anh Bùi Còng và các ngư dân. Câu trả lời là ai may người ấy sẽ mua trúng khi chủ tàu đã bán cho tư thương. Chưa hết, còn có những người luôn được ăn cá thu tươi ngon, đó là người thân của các thuyền viên. Họ được các thuyền viên trên tàu mua hộ từ chủ tàu một hai con cá rồi làm dấu bằng cách dùng sợi dây buộc vào sau đuôi cá, để riêng sang một bên hầm chứa cho khỏi lẫn lộn. Dân sành ăn vẫn gọi đó là cá thu “xách tay”. Đó là những con cá thu trắng và thu chấm. Cá thu trắng được cắt ra thành từng lát có mầu trắng hồng. Sau đó ngâm vào trong nước muối pha loãng vài phút rồi cấp đông sử dụng dần. Khi chế biến, món cá thu sẽ rất ngon. Nếu không biết bí quyết ngâm qua nước muối loãng, liền đem cấp đông thì khi chế biến, gia vị sẽ không thấm vào từng thớ thịt, kém ngon. Còn cá thu chấm có thịt dẻo, dai, thường được ưu tiên xẻ ra, nạo lấy thịt đang nóng ấm, thêm gia vị làm chả cá thu thơm lừng, tươi ngon.
Anh Bùi Còng là con của một gia đình có tám anh em ở khu phố 5, thị trấn Cửa Việt, nổi tiếng với nghề khai thác cá thu. Anh Bùi Dương, anh ruột của anh Bùi Còng cho biết: Theo kinh nghiệm đi biển của anh Dương và ngư dân, có thể vùng biển Quảng Trị nhiều cá thu vì có thức ăn phù hợp, luôn cân nước, nghĩa là nước êm, thủy triều lên xuống hai lần trong ngày. Vì thế cá thu rất thích, ở lại sinh sống lâu hơn, từ cuối mùa thu năm trước đến cuối mùa xuân năm sau. Đó cũng là thời gian những đoàn thuyền đánh cá của ngư dân họ Bùi ở thị trấn Cửa Việt ra khơi săn cá thu. Trước đây khi tìm ra nơi cá thu sinh sống thì ngư dân dùng câu để câu cá thu. Khi câu đầy cá, trước khi thuyền về đất liền, các lão ngư nhìn lên núi cao định vị “làm dấu” nơi có nhiều cá để chuyến đi biển lần sau trở lại câu ngay vị trí đó. Bây giờ phương tiện đánh bắt hiện đại, có máy dò bụng biển, sử dụng lưới bùng nhùng cho nên bắt cá thu dễ hơn. Thuyền trưởng của tàu khai thác xa bờ thường là người có kinh nghiệm đánh bắt nhiều nhất. Sau khi dùng máy dò ngang dò bụng biển, phát hiện đàn cá thu đang hoạt động, nhưng vẫn chưa thể buông lưới. Cần chọn thời điểm thích hợp để buông lưới bắt gọn cả đàn cá. Đây là chuyện rất khó, phải tính toán hết sức kỹ lưỡng. Đợi khi con nước trên biển đạt độ chuẩn theo một cảm nhận riêng của người đi biển, gió biển cũng phù hợp, thời điểm này thường là về đêm, tiếp tục dò máy, thấy bầy cá không di chuyển, nằm lặng im trong bụng biển thì mới bủa lưới. Cá thu mình thon cho nên bơi rất nhanh, khi chúng đang di chuyển trên biển thì khó buông kịp lưới để vây bắt. Dù đã bị lưới vây, có những con cá thu vẫn ngoan cố há miệng bơi vẫy vùng, gặp lưới lọt vào miệng, cá liền cắn đứt lưới để thoát thân. Những con cá mắc lưới là khi vẫy vùng chúng ngậm miệng để bơi dẫn đến đầu cá chui lọt qua ô lưới, bị lưới cản lại ở phần gáy và vây, ngư dân chỉ cần kéo lưới lên gỡ cá để đưa vào hầm chứa cấp đông.
Đang kể chuyện săn cá thu thật hấp dẫn, bỗng anh Bùi Dương suy tư. Từ ngày phương tiện đánh bắt cá bằng lưới bùng nhùng ra đời, loại lưới này có thể vét hết các loại động vật sống từ mặt biển xuống tận độ sâu hơn 40 mét thì gần như không còn cảnh “cá thu biển đông như đàn thoi”, nghề khai thác cá thu vì thế cũng gặp muôn vàn khó khăn.
Dòng họ săn cá
Anh Bùi Dương và Bùi Còng chia sẻ, cá thu ngày càng khan hiếm, đi biển bây giờ không phải chuyến nào cũng trúng cá thu. Trước đây mỗi chuyến đi biển, tàu của các anh thường khai thác từ sáu đến bảy tấn cá thu, bây giờ thì nhiều nhất cũng chỉ hơn hai tấn. Gắn bó với nghề khai thác cá thu, suốt năm tháng dầm mình trên biển khơi cho nên anh Dương, anh Còng rất rắn rỏi, khỏe mạnh, đủ sức đương đầu với gian lao của nghề. Tàu mới vào bờ chiều tối hôm trước, tranh thủ thời tiết thuận lợi, rạng sáng hôm sau, đoàn tàu đánh cá của dòng họ Bùi, trong đó có anh Bùi Còng lại vội vã ra khơi, tiếp tục dò bụng biển, dàn đan thế trận săn bắt cá thu. Thông thường lưới được thả xuống biển vào ban chiều cho đến khi trời chập tối của mỗi ngày. Khi đó thuyền viên trên tàu được nghỉ ngơi đợi đến 12 giờ đêm, là thời điểm bắt đầu kéo lưới lên bắt cá. Hôm nào may mắn gặp cá nhiều thì đến trưa hôm sau mới gỡ xong, thu dọn lưới để tiếp tục dò bụng biển, quăng lưới bắt cá.
Nhớ lại bốn năm trước, khi sự cố ô nhiễm môi trường biển xảy ra, ngư dân điêu đứng, dòng họ Bùi sống bằng nghề khai thác biển cũng không tránh khỏi. Ông Bùi Đình Dĩnh, Trưởng tộc họ Bùi kể, đó là những ngày hắt hiu, đen tối nhất trong cuộc đời khai thác biển của ngư dân. Khai thác gần bờ không được vì nằm trong phạm vi 20 km, là vùng biển bị ảnh hưởng ô nhiễm. Các sản phẩm khai thác hải sản xa bờ cũng khó tiêu thụ. Những ngày ấy, đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Ủy viên T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị lặn lội về với ngư dân để động viên, chia sẻ khó khăn, nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của ngư dân, của dòng họ Bùi ở thị trấn Cửa Việt để có những quyết sách kịp thời, đúng đắn giúp ngư dân ổn định tinh thần, tìm cách trở lại với biển khơi khi điều kiện cho phép. Hơn ai hết, đồng chí Nguyễn Văn Hùng biết ở Việt Nam ít có dòng họ nào có truyền thống bám biển với đội tàu khai thác biển lớn mạnh như dòng họ Bùi đất này. Riêng tàu khai thác xa bờ đã hơn 30 chiếc, chiếm đến một phần ba tổng số tàu đánh bắt xa bờ của thị trấn Cửa Việt. Không chỉ khai thác cá ở vùng biển Quảng Trị, đội tàu của dòng họ Bùi còn vươn đến các ngư trường vịnh Bắc Bộ, Hoàng Sa, Trường Sa, Bãi Tư Chính… khiến ngư dân trong vùng hết sức ngưỡng mộ.
Ông Bùi Đình Dĩnh làm một phép tính nhanh cho biết, đội tàu, thuyền của dòng họ đã giải quyết việc làm thường xuyên cho gần 300 lao động là con em của dòng tộc và ngư dân trong vùng, góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội địa phương cũng như tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo. Gia phả họ Bùi còn ghi dòng họ này đã có mặt ở vùng cửa biển Cửa Việt gần 10 thế kỷ. Từ thời danh tướng Lý Thường Kiệt thân chinh vào vùng đất này và đổi tên cửa Việt Yên thành tên gọi mới Cửa Việt, nghĩa là cửa biển này, từ nay của người Việt, thì dòng họ Bùi cũng có mặt ở đây. Trong hành trình lịch sử oai hùng đó của dân tộc, con cháu họ Bùi luôn trở thành những cây phong ba trên Biển Đông góp phần bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của dân tộc.
Ông Bùi Đình Chính năm nay đã ngoài 75, một trong những ngư dân cao tuổi của họ Bùi. Ông có ba người con trai, tất cả đều theo cha ra biển từ tuổi nhỏ. Bây giờ tuổi già, sức yếu không thể theo những con tàu lênh đênh ngoài khơi xa, ông Chính nhớ biển quay quắt. Biển là một phần máu thịt của ông và con cháu dòng họ Bùi.
BÀI VÀ ẢNH: LÂM QUANG HUY (NDO)

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null