Màu xanh không bền vững

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Từ miền núi cao đến trung du, đâu cũng gặp một màu xanh ngút ngàn. Nhưng, đa số là màu xanh của những cánh rừng keo.

Do dễ trồng, sinh trưởng nhanh, cây keo hiện là cây trồng chủ lực, chiếm 90% diện tích đất lâm nghiệp. Thậm chí, diện tích trồng keo lấn sâu vào rừng tự nhiên.

Sạt lở đất ở miền núi Quảng Nam.

Sạt lở đất ở miền núi Quảng Nam.

Miền Trung hiện có 1,8 triệu héc ta rừng trồng, trong đó chủ yếu là cây keo lá tràm. Hệ lụy của việc phát triển nóng diện tích trồng keo khiến nhiều địa phương miền núi lo ngại.

Sau vài vụ thu hoạch, các địa phương ở miền Trung đã nhận ra, rừng trồng cây keo không phải là hệ sinh thái rừng. Màu xanh trên đất trồng keo là màu xanh không bền vững.

Phát sạch, đốt sạch

Miền núi Quảng Nam vào mùa đốt rẫy. Giữa cao điểm nắng nóng, từ xa có thể nhìn thấy những cột khói cao hàng trăm mét giữa những cánh rừng ngút ngàn. Và đó là những rẫy keo rộng hàng trăm héc ta được chủ rừng đốt thực bì sau thu hoạch keo.

Trong khoảng các tháng 7, 8, tại 9 huyện miền núi Quảng Nam, nông dân tranh thủ thu hoạch keo bởi vài tháng nữa, sẽ vào mùa mưa bão, keo sẽ bị gãy đổ.

Những cánh rừng bị đốt thực bì.

Những cánh rừng bị đốt thực bì.

Như một quy trình, đốt sạch thảm thực bì, những quả đồi xanh ngắt thành đồi núi trọc. Đây được xem là quy trình trồng rừng tái sinh bởi sau vài cơn mưa, keo non tự mọc lại trên những cánh rừng bị đốt đó.

Nhưng theo ông Triệu Văn Lực - Phó Cục trưởng Cục lâm nghiệp, việc đốt thực bì sau thu hoạch keo là trái với quy trình trồng rừng bền vững CFS, gây tổn hại nghiêm trọng về môi trường.

Không riêng gì miền núi Quảng Nam, đi dọc các tỉnh thành miền Trung đều cùng chung mô hình trồng và thu hoạch keo theo kiểu phát sạch, đốt sạch.

Duy một điều lạ là ngành nông nghiệp và cả chính quyền địa phương xem việc đốt thực bì này là chuyện thường ngày. Không ít vụ cháy rừng cũng từ đây mà ra.

Gia tăng sạt lở, cạn kiệt nguồn nước ngầm?

Quảng Nam là địa phương chịu nhiều tổn thất do thiên tai. Chỉ riêng năm 2020, tại 9 huyện miền núi, thiên tai đã làm hàng chục người thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà bị phá hủy, hư hại, tổng thiệt hại hơn 10 ngàn tỷ đồng, tương đương 50% thu ngân sách cùng năm.

Thiệt hại nặng nề nhất là huyện Nam Trà My và Phước Sơn. Sau thiên tai, chính quyền và ngành chức năng đi tìm nguyên nhân dẫn đến lũ quét, sạt lở đất bất thường. Trong số những nguyên nhân đưa ra, phá rừng để trồng rừng, mở rộng diện tích trồng keo cũng được nhắc đến.

Bà con nhiều địa phương thu hoạch keo non để bán.

Bà con nhiều địa phương thu hoạch keo non để bán.

Ngay tại nóc ông Sinh thuộc thôn 1 xã Trà Vân, huyện Nam Trà My từng có trận sạt lở đất khiến 8 người bị thiệt mạng, nhiều người bị thương, hàng loạt ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn. Theo người dân ở đây, khu vực này bị sạt lở đất chứ không phải do lũ quét.

Ông Hồ Văn Thới - Phó Chủ tịch UBND xã Trà Vân cho rằng: khu vực này trước kia người dân làm rẫy. Trải qua nhiều năm có mưa lớn nhưng không có hiện tượng sạt lở đất. Từ ngày người dân trồng keo bên trên, sạt lở ngày một gia tăng hơn.

Kiểm tra thực tế tại nhiều địa điểm sạt lở, ông Trần Duy Dũng - Chủ tịch UBND huyện Nam Trà My nhận định, cây keo hút nước, làm đất tơi ra. Khi mưa xuống, ngấm nước, làm sạt lở. Chưa kể sau thu hoạch, gốc keo mục, nước ngấm vào dẫn đến xói lở.

Cũng theo ông Dũng, với địa hình đồi núi cao như Nam Trà My, trồng keo sẽ làm gia tăng sạt lở. Chưa kể đến mùa thu hoạch, người dân mở đường lâm sinh vận chuyển keo từ đồi này sang đồi khác, mỗi khi có mưa lớn, con đường lâm sinh thành dòng nước lũ cuốn trôi lớp đất mặt, kể cả đá.

Hiện tượng sạt lở, lũ quét ở miền núi có thể tổng hòa của nhiều nguyên nhân, cần có nghiên cứu chuyên sâu để có kết luận cụ thể. Tuy nhiên, với những người trực tiếp trồng keo tại huyện Nam Trà My như ông Hồ Văn Hên ở xã Trà Vân, huyện Nam Trà My, cây keo là cây gây hại cho đất. Toàn bộ diện tích đồi keo hàng trăm héc ta gần nhà ông, những con suối giờ khô cạn nước.

Thu hoạch keo ở Nam Trà My.

Thu hoạch keo ở Nam Trà My.

Ông Lê Muộn - nguyên Phó giám đốc Sở NN& PTNT cho rằng, trồng keo tạo được màu xanh nhưng không thể gọi là hệ sinh thái rừng hoàn chỉnh.

Cây keo là cây trồng có bộ rễ ăn cạn, không tạo được nhiều tầng tán nên khả năng giữ nước rất kém, chống xói mòn cũng rất kém. Nếu tính diện tích trồng keo vào diện tích phủ xanh, mật độ che phủ rừng thì chưa chính xác. Chưa kể bài toán kinh tế của cây keo cũng là vấn đề cần xem lại.

Cây trồng nào phù hợp?

Quảng Nam có khoảng 700 nghìn héc ta đất lâm nghiệp, diện tích trồng keo chiếm gần 1/3, tương đương hơn 200 nghìn héc ta. Tại khu vực vùng sâu vùng xa, địa hình có độ dốc lớn, việc trồng keo không mang lại hiệu quả kinh tế bởi chi phí vận chuyển chiếm gần một nửa số tiền nông dân thu được. Nguồn vốn hạn chế, tư duy ngắn hạn, hầu hết nông dân hiện bán keo non làm nguyên liệu dăm gỗ.

Một thông tin khá tích cực khi hiện nay, không chỉ ở Quảng Nam, mà nhiều tỉnh thành miền Trung bắt đầu chuyển hướng phát triển kinh tế rừng, thay thế dần diện tích trồng keo.

Cục lâm nghiệp thị sát tại huyện Nam Trà My.

Cục lâm nghiệp thị sát tại huyện Nam Trà My.

Để thay đổi được thói quen của người dân không phải dễ, bởi cây keo được lãnh đạo các huyện miền núi gọi là “cây lười biếng”. Chỉ cần phát đốt, trồng xuống một lần, không cần chăm sóc cũng có thu hoạch (dù năng suất thấp).

Ông Triệu Văn Lực - Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, sau khi đi thực tế tại Nam Trà My cho rằng: “Giống keo mà bà con trồng hiện nay chưa tuyển chọn tốt. Trồng và chăm sóc không đúng kỹ thuật. Mật độ trồng quá dày. Chính vì vậy, rừng keo này để tiếp 4 năm, 5 năm hoặc lâu nữa mới khai thác thì năng suất cũng không cao”.

Cũng theo ông Lực, trồng keo theo mô hình trồng rừng gỗ lớn để xuất khẩu là hướng đi phù hợp. Vấn đề đặt ra là trong vòng đời khai thác rừng gỗ lớn (có thể 10 năm) người nông dân lấy gì để trang trải cuộc sống hằng ngày?

Chủ tịch UBND huyện Nam Trà My - ông Trần Duy Dũng cho biết, huyện vùng cao của ông đã có lộ trình thay thế cây keo. Theo ông, với diện tích trồng keo, địa phương bắt đầu chuyển sang trồng sắn.

Cùng với đó, người dân trồng xen cây quế bản địa hoặc giổi ăn hạt. Sắn cho thu hoạch hằng năm, khi những loại cây rừng bản địa khép tán thì người dân có thể trồng dược liệu dưới tán rừng.

Nóc ông Sinh bị sạt lở hồi tháng 10/2020
Nóc ông Sinh bị sạt lở hồi tháng 10/2020

Tại xã Trà Mai, ông Hồ Văn Minh vừa thu hoạch sắn trên diện tích đất đã trồng keo. Theo ông Minh, với giá sắn tươi hơn 2.000 đồng/kg, vụ vừa rồi ông thu lãi hơn 75 triệu đồng. So với cây keo, trồng sắn hiệu quả hơn nhiều lần. Và đã có hàng ngàn héc ta trồng keo tại Nam Trà My được nhiều hộ nông dân chuyển dần sang trồng rừng gỗ lớn và dược liệu.

Đó là địa bàn vùng núi cao, còn với nông dân vùng trung du và núi thấp của tỉnh Quảng Nam, 3 năm nay, chuyển đổi đất trồng keo nguyên liệu sang mô hình trồng cây ăn trái đang là xu hướng phổ biến.

Ở các huyện Bắc Trà My, Tiên Phước, Nam Giang, từ nguồn hỗ trợ cây giống của địa phương, bà con đã chuyển đổi hàng ngàn héc ta đất trồng keo sang mô hình trang trại.

Sau thời gian triển khai, Ông Nguyễn Hồng Vương - Trưởng phòng NN&PTNT huyện Bắc Trà My nhận định: “Ở các xã vùng cao, chúng tôi trồng cây quế và trồng rừng gỗ lớn. Các xã vùng thấp thì chúng tôi trồng cây ăn trái, hiện nay rất có hiệu quả”.

Ông Hồ Quang Bửu - Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho biết, Quảng Nam đã xây dựng đề án thay thế dần cây keo, tạo sinh kế để phát triển kinh tế. Mô hình trồng cây dổi ăn hạt, trồng dược liệu và trồng rừng gỗ lớn sẽ được nhân rộng trên toàn tỉnh. Phát triển bền vững, trong đó đảm bảo sinh kế cho người dân, hạn chế thiệt hại do thiên tai luôn là ưu tiên hàng đầu.

Theo Phóng sự của ĐỖ VINH (baoquangnam)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

null