Làng Việt Nam: Từ suối Đôi lên xóm Núi tới Tràng Dương ở Thái Nguyên

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Đó là 3 xóm thuộc làng Vạn Thọ, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Làng Vạn Thọ là nơi cưu mang sinh viên khoa Ngữ văn chúng tôi suốt những tháng năm sơ tán, bắt đầu từ năm 1965. Năm ấy tôi may mắn được tuyển chọn vào khoa Văn - Đại học Tổng hợp Hà Nội, vì là năm đầu tiên Mỹ chính thức ném bom miền Bắc nên không thể tổ chức thi đại học. Tôi vừa được giấy báo vào đại học thì lập tức phải sơ tán lên Đại Từ, Thái Nguyên. Bắt đầu học trọn gói cả 4 năm đại học trên núi rừng Việt Bắc.

Làng Vạn Thọ nơi chúng tôi "cập bến" là làng dựa lưng vào núi, dân làng thì một nửa người Tày một nửa người Kinh, vừa cấy lúa trồng khoai, cả khoai lang và khoai mì, vừa đi rừng khai thác những sản vật của rừng. Lại thêm nghề sao chế chè móc câu và nấu rượu gạo, nên đời sống dân làng Vạn Thọ tương đối dễ chịu, không gia đình nào quá nghèo.

Vùng chè La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
Vùng chè La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên

Lớp Văn 1 chúng tôi chiếm lĩnh "xóm" suối Đôi, nhà bếp tập thể được chúng tôi dựng gần con suối nước trong leo lẻo, thuận lợi nhiều bề. Lớp học cất ở xóm Núi, để tránh máy bay Mỹ, nên nội thất lớp đào âm dưới đất, có lối thoát là một chiến hào. Thời đó, Bác Hồ bảo đừng gọi chúng tôi là sinh viên, chỉ gọi là học sinh thôi, để chúng tôi biết khiêm nhường mà phấn đấu.

Mới nhập học, tất cả chúng tôi đều được phân công ở nhà dân, nhà nào rộng thì ở hai hoặc ba người. Tôi, anh Dương Hòa Bình và bạn Cao Văn Định được phân công ở nhà ông Bính, một gia đình "trung nông cứng cựa". Ông Bính dành cho 3 người chúng tôi một phòng riêng hẳn hoi, có giường nằm tử tế. Sáng ngủ dậy còn được chủ nhà cho một đĩa khoai lang hay khoai mì lót dạ. Quá tươm tất.

Từ xóm Núi nơi lớp Văn 1 và Văn 2 ở, đi dọc đường chân núi tới xóm Tràng Dương, là nơi lớp Văn 3 cư ngụ. Đó là lớp có sinh viên Nguyễn Phú Trọng, sau này là Tổng bí thư Đảng, theo học. Ông Trọng học trên chúng tôi hai lớp, gọi là lớp Văn khóa 8, chúng tôi lớp Văn khóa 10. Lớp ông Nguyễn Phú Trọng có 2 năm học ở Hà Nội, 2 năm cuối học ở sơ tán. Lớp Văn 3 năm ấy rất đông, tới ngót trăm sinh viên.

Núi rừng ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
Núi rừng ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên

Xóm Tràng Dương có đặt thư viện của khoa Ngữ văn, nên các thầy cô giáo tập trung ở xóm này. Chỉ riêng thầy Hoàng Như Mai là có nhà ở suối Đôi, chúng tôi hay lội suối sang chơi với thầy.

Thầy Mai là một nhà giáo và một nghệ sĩ. Thầy đã từng ở trong một đoàn kịch rất nổi tiếng, ngay sau Cách mạng tháng Tám đã đi lưu diễn nhiều nơi trong nước. Thầy có giọng đọc thơ tuyệt hay, trầm hùng ấm áp.

Các thầy cô dạy chúng tôi ngày ấy đều là những bậc thầy rất giỏi, từ thầy Nguyễn Tài Cẩn chuyên gia ngôn ngữ học tới thầy Đinh Gia Khánh chuyên gia văn học dân gian. Rồi thầy Trần Đình Hượu chuyên gia văn triết phương Đông, thầy Hoàng Như Mai dạy văn học Việt Nam, bằng giọng đọc thơ và những câu chuyện đời thầy kể về các văn nghệ sĩ đã khiến đám học trò chúng tôi mê mẩn.

Tôi nhớ thầy Nguyễn Kim Đính dạy văn học Nga - Xô viết, vì thầy có kiến thức văn học Nga uyên bác lại vừa có thơ in ở tuyển tập thơ Việt Nam thời ấy. Khi vào năm thứ nhất, mấy anh em chúng tôi rất mê văn học Nga - Xô viết nên đăng ký học ban này, đêm liên hoan văn nghệ trường tổng hợp, nhóm "văn học Nga - Xô viết" chúng tôi đăng ký hát mấy bài hát Nga, trong đó có bài "Thời thanh niên sôi nổi" rất nổi tiếng hồi đó, hát cả tiếng Nga và tiếng Việt.

Học đại học nơi sơ tán, khổ mà vui. Chúng tôi ở nhà dân, được bà con thương, coi như người thân trong nhà. Tôi có người bạn thân lớn tuổi hơn học cùng lớp là anh Nguyễn Văn Đồng, hai chúng tôi hay quây quần dưới bếp nhà anh Lộc, một chủ nhà rất dễ thương, nơi anh Đồng tá túc. Nhà anh Lộc hay nấu rượu gạo, lại thường xuyên sao chế chè móc câu, nên hai chúng tôi học lỏm theo hai nghề này, vừa có trà uống vừa có rượu lai rai những đêm đông lạnh buốt.

Ở nhà dân, cái chúng tôi có được là tình cảm với dân làng. Tôi nghĩ, chính tình cảm tốt lành này trong lòng anh sinh viên Nguyễn Phú Trọng sau này đã làm nên một vị lãnh đạo tối cao biết yêu thương nhân dân, biết nghĩ và sống vì nhân dân.

Như thế, làng Vạn Thọ đã góp công sức tình cảm làm nên một Tổng bí thư Đảng không chỉ đặc biệt xuất sắc mà còn đặc biệt yêu nước thương dân.

Bản thân tôi nhờ học ở làng Vạn Thọ mà rèn luyện được nhiều kỹ năng lao động, nhất là kỹ năng đi rừng lấy nứa lấy gỗ lấy củi. Những kỹ năng ấy giúp tôi khi thành bộ đội vượt Trường Sơn vào chiến trường đã không hề bỡ ngỡ khi hành quân trên rừng núi.

Nhiều bạn bè tôi cũng đã lên đường vào chiến trường như tôi. Chúng tôi đã ra đi từ làng Vạn Thọ, từ suối Đôi lên xóm Núi tới Tràng Dương, và đã trưởng thành.

Theo Thanh Thảo (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

(GLO)- Hơn 30 năm cầm cương, ông Phan Xuân Định (SN 1966, thôn Đồng Bằng, xã Biển Hồ, TP. Pleiku) vẫn luôn nhớ về những ngày tháng rong ruổi cùng tiếng vó ngựa trên cao nguyên. Lão xà ích ấy vẫn âm thầm nuôi dưỡng đàn ngựa để thỏa chí tang bồng và giữ cho phố núi Pleiku nét riêng độc đáo.

Như núi, như rừng

Như núi, như rừng

Trong dòng chảy lịch sử của Kon Tum, qua biết bao thăng trầm, mỗi vùng đất nơi đây đều gắn với những chiến công oai hùng, với những con người mà cuộc đời của họ đã trở thành huyền thoại. Một trong số đó là ông Sô Lây Tăng- người vừa đi vào cõi vĩnh hằng.

Xóa bỏ hủ tục 'cầm đồ thuốc độc'

Xóa bỏ hủ tục 'cầm đồ thuốc độc'

Suốt thời gian dài, tệ nạn nghi kỵ “cầm đồ thuốc độc” ở miền núi Quảng Ngãi trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng, gây hoang mang, chia rẽ mối đoàn kết cộng đồng, nhiều người bị nghi ngờ có “đồ độc” phải bỏ làng vào rừng hoặc tự tử, thậm chí bị đánh đập dã man cho đến chết.

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Chục cây số đường rừng, từ cao độ 1.500 m lên 2.500 m nhưng mất hơn 5 giờ chúng tôi mới đến nơi đang lưu giữ món quà tiên của bản Hô Tra (H.Tân Uyên, Lai Châu), chính là vạt rừng trà cổ thụ búp tím đang mùa vụ.