Làng chài của người Nam Bộ trên cao nguyên bazan

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Sau nhiều năm sống cảnh “xóm ngụ cư”, lênh đênh theo con nước thì đến nay, làng chài của những người con miền Tây Nam Bộ đã hình thành, người dân an cư lập nghiệp trên cao nguyên bazan đầy nắng gió.
Sông Sê San nằm giữa hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum với tổng chiều dài sông chính là 237 km, diện tích lưu vực là 11.450 km. Hơn 10 năm trước, đặc biệt là từ khi Thủy điện Sê San chặn dòng, người dân bắt đầu đổ về đây làm nghề chài lưới, đánh bắt thủy sản. 
Dân ở đây chủ yếu là những người đến từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: Sóc Trăng, Hậu Giang, An Giang, Long An và một số đến từ Thừa Thiên - Huế di cư lên cao nguyên này để đánh bắt thủy sản và nuôi cá lồng.
Người dân làng chài nuôi cá lồng trong lòng hồ thủy điện Sê San.
Người dân làng chài nuôi cá lồng trong lòng hồ thủy điện Sê San.
Ban đầu, họ làm những ngôi nhà nổi tạm bợ trên lòng hồ thủy điện thuộc xã Ia O, huyện Ia Grai, Gia Lai. Sau khi “xóm ngụ cư” ngày một đông hơn, một số gia đình di chuyển sang bờ bên kia thuộc xã Ia Tơi, huyện Ia H’Drai, Kon Tum để tìm nguồn lợi thủy sản mới. 
Từ làng chài đến trung tâm xã Ia Tơi phải vượt hơn 10 km đường rừng. Sống giữa vùng lòng hồ, làng chài bị tách biệt với thế giới xung quanh, không điện, không nước sạch. Con thuyền vừa dùng để di chuyển, vừa là phương tiện để mưu sinh. Nhìn từ xa, những ngôi nhà nổi hoàn toàn bị bao vây bởi mênh mông nước của lòng hồ rộng lớn. Chỉ một cơn gió nhẹ làm mặt nước chao nghiêng thì những ngôi nhà nổi cũng lắc lư theo con nước. 
Con thuyền vừa dùng để di chuyển, vừa là phương tiện để mưu sinh.
Con thuyền vừa dùng để di chuyển, vừa là phương tiện để mưu sinh.
Nhà cũng được dựng lên rất đơn sơ gồm những thân cây nứa và gỗ ghép lại để tiện cho việc di chuyển trên mặt nước. Vì cuộc sống di cư nên những cư dân làng chài không có giấy tờ, sống trốn tránh chính quyền và luôn thường trực nỗi lo bị bắt phạt hoặc đuổi đi nơi khác. Tất cả họ đều chung cảnh tạm bợ, không “đất cắm dùi”, con cái không được đi đến trường, không được chăm sóc y tế.
Là người đầu tiên đặt chân đến lòng hồ Sê San mưu sinh, ông Nguyễn Văn Triều (quê tỉnh An Giang) kể lại: Năm 2009, quê tôi bị mất mùa, gia đình rất chật vật kiếm cái ăn. Lúc đó, có người mách nước nên tôi một mình khăn gói lên đây thử vận may. 
Ban đầu, tôi chỉ dựng tạm cái chòi bên mép sông để bắt tôm, cá nhỏ làm kế sinh nhai. Ở lâu tôi phát hiện lòng hồ này tôm cá rất nhiều, chỉ cần có nghề một chút là bắt được những loại cá khủng như cá lăng, cá sọc dưa… 
Đặc sản bánh tráng cá của cư dân làng chài.
Đặc sản bánh tráng cá của cư dân làng chài.
Thấy làm ăn được, tôi đưa cả gia đình từ miền Tây lên đây để mưu sinh. Tuy cuộc sống khó khăn nhưng thu nhập vẫn cao hơn ở quê, đủ nuôi cái ăn cho cả gia đình.
Cũng mang cả gia đình lênh đênh kiếm sống trên vùng lòng hồ, ông Trần Tằm (quê tỉnh Sóc Trăng) trải lòng: Ở quê ruộng đất không có, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Thấy người anh họ vào đánh bắt cá được nên tôi đi theo. Được vài năm thì vợ con cũng lên đây theo để phụ giúp. Bình quân mỗi ngày kiếm được khoảng 200 nghìn đồng, dù không nhiều nhưng đỡ hơn ở quê. 
Những ngôi nhà khang trang của cư dân làng chài được nhà nước hỗ trợ xây dựng.
Những ngôi nhà khang trang của cư dân làng chài được nhà nước hỗ trợ xây dựng.
Cũng theo ông Tằm, ban đầu chỉ có vài hộ dựng lều bên bờ sông để mưu sinh. Về sau được chính quyền vận động nên các hộ dân đã tập trung lại bên bờ thuộc xã Ia Tơi để đánh bắt cá và nuôi cá lồng. 
Dù sống trên cao nguyên nhưng nhịp sống của cư dân làng chài vẫn giữ vẹn nguyên những nét đặc trưng của người con Nam Bộ. Ban ngày, dân làng chài chăm sóc, nuôi cá lồng. Tối đến, họ quây quần bên những căn nhà nổi đàn hát, ca vọng cổ để vơi nỗi nhớ quê hương. Đến khoảng 2-3h sáng, họ đồng loạt “gõ thuyền”, chong đèn sáng mặt nước để đánh cá.
Tuy nhiên, vấn đề mà các hộ dân trăn trở là con em không được đến trường như bạn bè trang lứa. Ngoài ra, do chưa có đất nên không có hộ khẩu, không thể làm các giấy tờ liên quan. Biết thiệt thòi là thế nhưng nhiều gia đình không còn cách nào khác đành phải cho con nghỉ học, ở trên nhà nổi để phụ giúp cha mẹ. Việc đến trường của trẻ em làng chài bỗng chốc trở nên quá xa xôi.
Sinh hoạt của cư dân làng chài đều diễn ra trên mặt nước.
Sinh hoạt của cư dân làng chài đều diễn ra trên mặt nước.
Hiểu được những khó khăn của bà con và để giải quyết vấn đề an sinh xã hội cũng như đảm bảo an ninh trật tự tại địa phương, UBND tỉnh Kon Tum và huyện Ia H’Drai đã xây dựng kế hoạch cụ thể để đón nhận, chăm sóc, hỗ trợ người dân làng chài yên tâm sinh sống trên quê hương mới.
Trao đổi với chúng tôi, ông Chế Hồng Quyền, Chủ tịch UBND xã Ia Tơi cho biết: Làng chài hiện có 29 hộ với hơn 100 nhân khẩu. Trước việc người dân sống lênh đênh trên những căn nhà nổi tạm bợ, thiếu thốn đủ thứ, lãnh đạo UBND tỉnh Kon Tum và huyện Ia H’Drai đã đặc biệt quan tâm, hỗ trợ nhằm đưa người dân lên bờ, sớm ổn định cuộc sống; con cái được đến trường và chăm sóc y tế đầy đủ. 
Đầu năm 2018, mỗi hộ dân làng chài đã được chính quyền địa phương cấp 400m2 đất ở và hỗ trợ 50 triệu đồng để dựng nhà. Ngoài ra, hộ nào có nhu cầu thì có thể khai khẩn gần đó để canh tác, sản xuất nông nghiệp thêm. 
“Để tạo điều kiện cho bà con sớm ổn định cuộc sống trên quê hương thứ hai, chính quyền đã hỗ trợ tối đa các thủ tục, giấy tờ. Đồng thời, kéo hệ thống điện, làm đường… giúp họ sớm ổn định cuộc sống. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng hỗ trợ cá giống, thức ăn cho cá; chính quyền địa phương cũng thành lập HTX nông nghiệp cá nước ngọt nhằm tìm đầu ra, hỗ trợ kĩ thuật, con giống cho hàng chục hộ nơi đây. Những giải pháp này được kì vọng là “đòn bẫy” cho sự phát triển kinh tế của bà con làng chài trong thời gian đến”, ông Quyền nói.
Dẫn chúng tôi tham quan căn nhà vừa được nhà nước hỗ trợ xây dựng, ông Tằm phấn khởi: Tôi mừng lắm, từ đây cảnh lênh đênh trên lòng hồ đã chấm dứt. Mừng hơn cả là hai đứa con được chính quyền tạo điều kiện đến trường học cái chữ. Chúng tôi biết ơn Đảng, biết ơn chính quyền và hứa sẽ chăm chỉ làm ăn, xây dựng quê hương mới ngày càng giàu đẹp.
Theo Chí Hào (CANDO)

Có thể bạn quan tâm

Tôi là du kích Ba Tơ...

Tôi là du kích Ba Tơ...

“Cả đời cống hiến cho cách mạng, trải qua nhiều chức vụ, nhưng điều tôi tự hào nhất là mình từng là đội viên Đội Du kích Ba Tơ”. Đó là tâm sự của Đại tá Thân Hoạt, năm nay 98 tuổi đời, 80 tuổi Đảng, người con của quê hương Quảng Ngãi.

Người của bách khoa

Người của bách khoa

Thật ra sáu mươi không chỉ là mốc quy ước để có tuổi hưu trí mà còn là tuổi của “nhi nhĩ thuận” (tai đã nghe đủ chuyện đời nên giờ là lúc biết lẽ thuận, nghịch), GS Trần Văn Nam là người nhi nhĩ thuận đã mấy năm rồi.

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

(GLO)- Hơn 30 năm cầm cương, ông Phan Xuân Định (SN 1966, thôn Đồng Bằng, xã Biển Hồ, TP. Pleiku) vẫn luôn nhớ về những ngày tháng rong ruổi cùng tiếng vó ngựa trên cao nguyên. Lão xà ích ấy vẫn âm thầm nuôi dưỡng đàn ngựa để thỏa chí tang bồng và giữ cho phố núi Pleiku nét riêng độc đáo.

Như núi, như rừng

Như núi, như rừng

Trong dòng chảy lịch sử của Kon Tum, qua biết bao thăng trầm, mỗi vùng đất nơi đây đều gắn với những chiến công oai hùng, với những con người mà cuộc đời của họ đã trở thành huyền thoại. Một trong số đó là ông Sô Lây Tăng- người vừa đi vào cõi vĩnh hằng.

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Đối với người Mông xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, lễ cúng rừng (Tết rừng) có từ khi tổ tiên ngàn đời di cư đến đây lập làng, lập bản và trở thành sắc thái văn hóa, tín ngưỡng dân gian độc đáo riêng của người Mông nơi đây.

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Chục cây số đường rừng, từ cao độ 1.500 m lên 2.500 m nhưng mất hơn 5 giờ chúng tôi mới đến nơi đang lưu giữ món quà tiên của bản Hô Tra (H.Tân Uyên, Lai Châu), chính là vạt rừng trà cổ thụ búp tím đang mùa vụ.