Khi tre nứa cất lời

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Sau khi về hưu, tôi có mấy năm phụ trách mảng văn hóa tại Khu du lịch “Một thoáng Việt Nam” (huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh). Đấy là quãng thời gian rất thú vị, bởi mình được thi triển những gì mình thích, mình thấy có ích, thấy rất đáng được làm mà trước đó chưa có dịp trải nghiệm. Một trong những việc ấy là làm cho tre nứa cất lời. Mà tre nứa Tây Nguyên lại còn vang lên giữa đô thị Sài Gòn.
Bây giờ, chúng ta hiện đại lắm rồi, mọi thứ đồ dùng đều rất xịn xò. Đến cái nồi nấu cơm giờ cũng tự động hóa hoàn toàn, chỉ ngồi bất cứ đâu đấy, bấm mấy nhát, gạo tự đổ vào nồi, tự vo, tự cân nước, tự bật nút, tự chín.
Lần ngược về thì trước khi có những cái công cụ nấu hiện đại thế thì dân ta nấu bằng... ống nứa, dùng ống nứa nấu cơm và cả thức ăn. Giờ nó đang là đặc sản đấy.
Từ khi chưa có đồ đá, đồ sắt, đồ đồng, đồ nhôm inox như bây giờ, cha ông ta đã có... đồ nứa. Nứa trở thành nồi để nấu thức ăn khi mà con người vừa thoát ra khỏi trình độ ăn tươi nuốt sống. Cách nấu đơn giản thôi, cho đồ cần nấu vào ống nứa, rồi đốt lửa. Một số vùng dân tộc thiểu số phía Bắc gọi đấy là lam. Lam là nấu, là động từ, sau này nó trở thành danh từ. Cơm lam là cái món hầu như chúng ta ai cũng biết. Ngoài lam cơm, còn lam cá, lam thịt, lam rau. Giờ còn 2 món người ta thường lam như là đặc sản là lam cơm và lam thịt. Thịt dê cho vào ống nứa sau khi đã ướp gia vị rồi gác lên bếp là một món kêu ra bao nhiêu hết bấy nhiêu. Còn cơm lam thì ăn xong và kêu mang về cũng là chuyện thường tình.
Người Tây Nguyên cũng nấu cơm và thức ăn bằng ống nứa như thế. Và giờ các nhà hàng cũng có món này, thậm chí trở thành món chủ lực. Điều vui là bà con từng dân tộc Bahnar, Jrai, Ê Đê, Xê Đăng... đều có tên gọi riêng cho cách nấu này, nhưng giờ, hầu như tất cả đều gọi cơm lam. Riêng tôi, vẫn cương quyết gọi cơm nấu ống nứa. Dài tí nhưng nó đúng bản chất.
Đàn T'rưng gió Tây Nguyên. Ảnh: Văn Công Hùng
Đàn t'rưng gió Tây Nguyên tại Khu du lịch "Một thoáng Việt Nam". Ảnh: Văn Công Hùng
Mà không chỉ để nấu, nó còn có tác dụng đuổi thú nữa. Những giàn tre nứa được cài, cắm trong rẫy, có thể lợi dụng sức gió, sức nước, kết hợp với những con bù nhìn bằng lá chuối thành những thứ đuổi thú, chim hữu hiệu.
Rồi từ đấy, người ta mang về nhà, làm cái mà giờ ta gọi là nhạc cụ, nhưng có lẽ, cũng giống như chiêng sau này, người ta sử dụng làm chức năng thông tin trước. Người Kinh cũng có thời dùng mõ tre làm chức năng thông tin, từ gõ cầm canh, gõ thông báo đến đeo cho trâu bò. Thì người dân tộc thiểu số nói chung, người Tây Nguyên cũng vậy. Rồi tiến lên, người ta dùng như nhạc cụ. Và đấy có lẽ là phương thức để đàn t’rưng, klông pút... ra đời.
Đàn t’rưng, klông pút và một số nhạc cụ Tây Nguyên khác như goong, k’ni, đing goong, đing yơng, bro, teh đing... được phổ biến có lẽ là từ thời Đoàn văn công Tây Nguyên ra Bắc, có một số nghệ sĩ người dân tộc Tây Nguyên mang ra theo và được những bậc thầy thuở ấy như Nhật Lai dàn dựng. Ông Nay Pha người Jrai ở xã Chư Mố (huyện Ia Pa) là nghệ sĩ của Đoàn văn công Tây Nguyên thời ấy có công mang t’rưng đi phổ biến ở mười mấy nước xã hội chủ nghĩa khi đoàn đi biểu diễn dài ngày ở các nước này.
T’rưng ban đầu hoàn toàn được làm từ các nguyên liệu ở rừng, người chơi dùng chân móc để căng ra chơi. Sau này khi nó thành nhạc cụ chuyên nghiệp thì người ta làm những cái giá căng đàn cho tiện và có sử dụng thêm một số nguyên liệu hiện đại như dây cao su, dây dù để cột, buộc nhưng về cơ bản nó cũng vẫn là tre nứa. Cách chơi cũng thay đổi rất nhiều so với nguyên bản.
Đàn klông pút cũng thế. Vốn dĩ nó là mấy ống nứa ghép lại và người ta dùng tay vỗ ở đầu ống để tạo hơi ra âm thanh chứ không vỗ trực tiếp. Đa phần là phải 3 người chơi, một bên 1 người và bên kia 2 người. Sau này, người ta cải tiến bèn dựng đứng cái bộ ấy lên và dùng... cao su vỗ, tốt nhất là cái đế dép hay đi trong phòng.
Nghệ nhân làng Chuét (phường Thắng Lợi, TP. Pleiku) chơi đàn t’rưng. Ảnh: Văn Công Hùng
Nghệ nhân làng Chuét (phường Thắng Lợi, TP. Pleiku) chơi đàn t’rưng. Ảnh: Văn Công Hùng
Ở Khu du lịch “Một thoáng Việt Nam” có một cái t’rưng nước, một t’rưng gió. Tất nhiên, nước là dùng sức nước và gió thì dùng gió. Vấn đề là nghệ nhân rất tài tình khi chọn từng ống nứa, rồi khoét, sửa, nghe đo... âm thanh, để khi treo vào thành một chuỗi, một dây như thế, mỗi ống nứa đảm nhận một nốt khác nhau, để khi gió hoặc nước tác động vào, nó thành một chuỗi âm thanh có nghĩa chứ không phải bạ đâu kêu đấy. Và có một tốp nghệ nhân được mời từ làng Chuét (phường Thắng Lợi, TP. Pleiku) chơi các loại nhạc cụ tre nứa này.
Lại có chuyện này. Chúng ta đều biết, người Tây Nguyên không làm ra chiêng dù chiêng bây giờ là một phần cuộc sống của họ, dù không gian văn hóa cồng chiêng bây giờ được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại... mà họ phải đi mua/đổi của người Kinh, người Lào, người Mã Lai về. Nhưng trước khi đi mua/đổi chiêng ấy thì người Tây Nguyên dùng tre thay chiêng. Tôi đã chứng kiến những người dân Tây Nguyên dùng tre thay chiêng. Nếu nhắm mắt lại, hầu như không biết là họ đang chơi chiêng bằng tre, tất nhiên trừ những người nghiên cứu âm nhạc.
Và giờ, người ta phát hiện ra rằng trên thế giới có tới hơn ngàn loại tre khác nhau. Việt Nam cũng được xếp vào nhóm nước có nhiều giống tre, đứng thứ 4 thế giới về diện tích tre nứa. Một thời gian dài, nhiều trăm năm, tre nứa là vật dụng thường xuyên của người Việt từ tăm, đũa tới nhà cửa các loại. Sau tiến lên bê tông cốt thép, đến tăm cũng bằng nhựa hoặc gỗ, rồi giờ tre nứa đang trở lại. Và mới biết, nếu biết cách sử dụng, tre nứa cũng bền chả khác gì các vật liệu khác mà các công trình về tre của kiến trúc sư Võ Trọng Nghĩa là ví dụ. Và cũng đến giờ tôi mới biết, từ tre, người ta có thể chế biến ra vô vàn thứ như vải may quần áo, ẩm thực, hương liệu... tất nhiên vì thế mà đã từng có kẻ cả gan phịa ra món thuốc chữa ung thư từ... than tre. Nhưng tôi biết, có thể sản xuất dược liệu từ than tre là điều khả dĩ.
Mà những điều tôi biết về tre nứa, mới là hạt cát giữa biển, dù chỗ tôi làm việc đã có tới 120 giống tre, có nguyên một khu tre và có những nhạc cụ tre như tôi kể.
Mùa xuân cũng là mùa tre nứa cất lời. Lời của chúng là những mụt măng căng mởn vươn lên trong nắng xuân. Lời của chúng cũng chính là những cái cần rượu ngất nghểu hương rừng (các gia đình ở phố giờ Tết hay mua một ghè rượu cần nhỏ để trong nhà, vừa trang trí vừa tiếp khách, rất đẹp và thú vị), lời của chúng còn là những ống cơm nướng mà giờ ta hay gọi cơm lam. Một số nhà hàng có món này và sẵn sàng ship. Thử đi, lạ miệng và ngon bổ rẻ. Và, nó còn là những âm thanh tuyệt vời từ những dàn t’rưng, klông pút... mà nếu không có điều kiện xem/nghe trực tiếp, ta có thể thưởng thức từ các chương trình âm nhạc dân tộc trên mạng. Không phải không có lý khi mà các chương trình âm nhạc Tết của các đài truyền hình, đài phát thanh đều có món âm nhạc dân tộc, và món ấy, quá nửa là từ tre nứa các loại.
VĂN CÔNG HÙNG

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.