Hồn nhiên thật thà và uyên bác như Tế Hanh

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Năm nay, kỷ niệm 15 năm ngày nhà thơ Tế Hanh qua đời, tôi nhớ lại mấy kỷ niệm với nhà thơ lớn quê Quảng Ngãi.

Thơ Tế Hanh còn lại, và ngày càng được nhiều người đọc yêu mến thơ ông. Tôi nghĩ, cũng còn lại là những câu chuyện nho nhỏ vui vui về ông, một nhà thơ Việt hồn nhiên, thật thà và uyên bác.

"Mình muốn viết một trường ca về Dung Quất"

Chuyện vào năm 1997, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thực hiện phim chân dung Tế Hanh theo đơn đặt hàng của Hội nhà văn Việt Nam. Dĩ nhiên, "nhân vật chính" - nhà thơ Tế Hanh - được trân trọng mời về Quảng Ngãi, về tận quê ông ở Bình Dương, Bình Sơn để "đóng phim".

Được quen với Tế Hanh từ hơn 20 năm trước, tôi vẫn biết Tế Hanh là người thật thà, rất thật thà và có vẻ không quen "trình diễn' trước đông người. Ông nói chuyện thơ không cuốn hút như Xuân Diệu, không sắc sảo như Chế Lan Viên. Và tôi nghĩ, chắc ông cũng "đóng phim" không xuất sắc như Nguyễn Tuân hay một số nhà văn, nhà thơ khác.

Tôi nhầm! Dù không "diễn" theo kiểu diễn viên chuyên nghiệp trước ống kính, nhưng Tế Hanh vào vai "hơi bị được". Ông cứ thật thà và bình dị như thế trước ống kính, cũng không khác khi ông chuyện trò với chúng tôi bên ấm trà hay thảng hoặc bên chai bia.

Chính cái thật không vẽ vời của ông đã khiến Nguyễn Thụy Kha có được những thước phim chân dung rất thuyết phục. Có lần, trong "kịch bản", Tế Hanh có về Dung Quất để "diễn xuất". Chúng tôi tháp tùng ông ra tận bờ biển vịnh Dung Quất, nơi sẽ là cảng dầu khí. Thực ra lúc bấy giờ chẳng thấy cảng dầu ở đâu, chỉ gặp một bờ biển đẹp thì rất đẹp nhưng… bẩn cũng cực bẩn. Đầy phân người tươi rói và cả khô cứng.

Tôi với Thụy Kha phải dìu Tế Hanh đi từng bước thận trọng trên bãi cát, sợ ông dẫm phải "lựu đạn" gài. Thời gian ấy mắt Tế Hanh đã bị đau nặng, gần như ông không nhìn thấy gì, hoặc chỉ nhìn lờ mờ.

Quay phim xong, cả đoàn chúng tôi lên một quán cóc phía trên bãi biển và gọi vài con mực nướng, mấy chai bia Dung Quất - bia Quảng Ngãi sản xuất - để "liên hoan". Tế Hanh tuy chỉ nhấm nháp chút bia "quê nhà" nhưng ông rất hào hứng nâng ly với chúng tôi. Ông đâu ngờ chính vào lúc ấy, ông đã giúp cho nhà máy bia Dung Quất những hình ảnh quảng bá sản phẩm có một không hai: nhà thơ Tế Hanh uống bia Dung Quất ngay tại… Dung Quất!

Nhà thơ Tế Hanh

Nhà thơ Tế Hanh

Quảng cáo như thế thì tuyệt vời chứ ạ! Sau này, tôi có hỏi ông giám đốc bia Dung Quất "có gì không ông?". Ông ta cười khà khà: "No, I don't know" (không, tôi không biết!). Đúng là "hết biết".

Trong câu chuyện tâm tình bên vịnh Dung Quất, chợt Tế Hanh nói: "Vùng này hồi xưa gọi là thôn Tuyết Diêm. Đây là thôn của diêm dân - những người làm muối. Hồi nhỏ mình có trọ học ở đây một thời gian. Dân ở đây nghèo lắm. Nếu ta làm được Dung Quất cho dân Tuyết Diêm đổi đời thì không mừng nào bằng! Mình muốn viết một trường ca về Dung Quất. Mình có một khoảng thời thơ ấu ở đây. Mình muốn viết…".

Chúng tôi đều lặng người nghe ông nói. Năm 1997, Tế Hanh đã 76 tuổi (ông sinh năm 1921 - tuổi Tân Dậu - chúng tôi vẫn đọc đùa ông: "Liên Xô nở trước đời ông… 4 tuổi). Vậy mà ông vẫn khát khao viết được một bài thơ dài về quê hương mình. Trong khi chúng tôi còn trẻ hơn ông rất nhiều, lại cứ mải bia bọt rong chơi, chỉ thỉnh thoảng ghé Dung Quất viết vài bài… báo. Mà không hẳn đã ngợi ca.

Lời bộc bạch chân tình của Tế Hanh khiến cả đoàn chúng tôi cảm động. Nhưng cũng rủi mà may, là nếu ông bắt tay vào viết cái trường ca ấy, số phận nó chắc cũng long đong như… nhà máy lọc dầu Dung Quất, chẳng biết lúc nào và bao giờ có câu kết thúc.

Nhà thơ Tế Hanh, tên thật là Trần Tế Hanh, sinh ngày 20.6.1921.

Thuở nhỏ, ông học ở trường làng, trường huyện. Năm 15 tuổi, ông ra học tại Trường Khải Định (tức Quốc học Huế).

Tháng 8.1945, nhà thơ Tế Hanh tham gia Việt Minh, tham gia công tác văn hóa, giáo dục ở Huế, Đà Nẵng; và là Ủy viên giáo dục - Ủy ban lâm thời TP.Đà Nẵng, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công.

Từ năm 1949 - 1954, ông ở trong Ban phụ trách Chi hội Văn nghệ Liên khu V.

Sau Hiệp định Genève, 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở Hội Văn nghệ.

Năm 1957, Hội Nhà văn Việt Nam thành lập, Tế Hanh tham gia Ban Biên tập tuần báo Văn của Hội, và nhiều năm, ông còn là Ủy viên chấp hành và Ban thường vụ của Hội.

Vào năm 1980, ông bị đau mắt và mắt ông mù dần… Ông qua đời vào lúc 12 giờ ngày 16.7.2009 tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não.

Một số bài thơ nổi tiếng của ông: Quê hương, Hoàng hôn, Dặm liễu, Người mẹ, Điệu quê hương, Cái giếng đầu làng, Nhớ con sông quê hương

Ông từng đạt Giải thưởng văn học Tự lực văn đoàn năm 1939, Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V tặng, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - nghệ thuật đợt 1 năm 1996...

Sáng cô áo đỏ chiều cô áo xanh

Nhơ hồi năm 1994, tôi được Nhà xuất bản Đà Nẵng mời tham gia vào hội đồng biên soạn và tuyển chọn tập thơ Miền Trung thế kỷ hai mươi. Nhà thơ Tế Hanh là chủ biên công trình này. Lại có được một khoảng thời gian chúng tôi sống cùng Tế Hanh để làm việc và… lai rai.

Dạo đó mắt Tế Hanh đã yếu lắm. Nghe nói ông được đi nước ngoài chữa mắt, nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm là mấy. Chúng tôi làm việc tập thể, và theo kiểu "tuyên đọc" từng bài thơ đã sơ chọn để Tế Hanh nghe và thẩm định.

Ngồi với nhau như thế ngày này qua ngày khác cũng rất mệt, nhưng tôi thấy Tế Hanh nghe rất chăm chú và có những nhận xét xác đáng. Ông là người tinh tường trong thẩm thơ. Chỉ khổ một nỗi là nhà thơ ở xứ ta nhiều quá, bản thảo thơ lại càng nhiều nên chúng tôi đọc khan cả cổ mà vẫn chưa hết.

Tế Hanh vẫn kiên nhẫn ngồi nghe, không hề tỏ ra mệt mỏi, dù tôi biết ông rất mệt. Thỉnh thoảng cũng có những lúc thư giãn, chúng tôi ngồi uống bia và tán chuyện linh tinh.

Tế Hanh rất hồn nhiên trong những lúc ấy, ông tham gia nhiệt tình với đám trẻ chúng tôi. Có lần, chị giám đốc nhà khách tỉnh ủy - nơi chúng tôi ở - hớn hở đến chào nhà thơ Tế Hanh. Buổi sáng, chị đến chào. Buổi chiều, chị lại… chào đến. Chúng tôi kín đáo nhìn nhau cười "thế này, khéo có chuyện...".

Đột ngột, trong lần "chào buổi chiều" của người đẹp U… 50, Tế Hanh chợt nói, bằng giọng Quảng Ngãi "gốc" của ông: " Buổi sáng cô "mẹc" (mặc) áo đỏ, buổi chiều cô "mẹc" (mặc) áo xanh, đẹp quá!". Chúng tôi nhìn nhau, chưng hửng "chết, hóa ra ông cụ còn… nhìn thấy". Nhìn đúng nữa chứ! Chị giám đốc nhà khách được nhà thơ lớn khen… trúng phóc, hai má chợt đỏ rựng lên trên nền áo… xanh.

"Mình thích thơ hiện đại lắm, nhưng…"

Tế Hanh thời chưa đau mắt nặng, ông rất mê đọc sách. Ông là một trong những nhà thơ Việt Nam đọc và dịch thơ Tây nhiều nhất. Vậy mà giọng thơ Tế Hanh vẫn rất mộc mạc, thật hồn nhiên và với ông, kỹ thuật thơ, dù là kỹ thuật tân kỳ, vẫn không khiến ông quan tâm bằng chính cảm xúc và sự hồn nhiên, đôn hậu.

Có lần, trong dịp về Quy Nhơn, ông nói với tôi: " Mình thích thơ hiện đại phương Tây, nhất là thơ hiện đại Pháp. Tôi hỏi ông thích ai trong những nhà thơ Pháp hiện đại, Tế Hanh nói: "Mình thích Aragon, nhất là những sáng tác thời kỳ sau của ông mà ở ta chưa dịch. Thơ Aragon trôi chảy như một dòng sông lớn. Mình thích Eluard. Thơ ông trong veo nhưng rất khó nắm bắt. Mình thích thơ Rene Char, một nhà thơ Pháp tham gia kháng chiến chống phát xít nhưng làm thơ u ẩn như một thiền sư Phương Đông. Mình thích thơ Saint-John-Perse, thơ ông này có kiến trúc nguy nga và ào ạt như sóng trào. Mình thích Andre Breton, nhưng chỉ thích phần lý luận thơ ca của ông này, chứ không thích thơ mấy. Mình thích…".

Tôi nghe như nuốt từng lời của ông. Người làm thơ vẫn thường học nhau, lớp trước truyền cho lớp sau những thu nhận và suy ngẫm, những tri thức và sự từng trải.

Tôi đã học được ở Tế Hanh, Xuân Diệu, Văn Cao… rất nhiều. Uyên bác như thế, nhưng Tế Hanh làm thơ rất thật thà và hồn nhiên. Ông vẫn là ông, cho tới cuối đời.

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null