Điệu hò biển khơi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Tiếng hò, tiếng hát theo nhịp sênh, nhịp phách, khi hào sảng, lúc thiết tha… Nhiều năm nay, âm thanh ấy vẫn đều đặn sôi nổi cất lên át tiếng sóng biển ở thôn Mỹ Nghĩa, phường Mỹ Đông, TP Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Một năm đôi lần, trước mỗi kỳ lễ hội lớn của người dân vùng biển, ngư dân lại tạm gác tay chèo, tay lưới tụ họp lại trước đình làng, xông xênh lễ phục, hăng say luyện tập. Điệu hò mang theo từ thuở cha ông lên thuyền vượt biển tới dựng làng lập ấp, trải qua bao biến cố, thăng trầm, giờ tiếp tục được những người dân làng biển gìn giữ, trao truyền.
Sôi động lễ hội cầu ngư đầu năm.

Sôi động lễ hội cầu ngư đầu năm.

1/Người Mỹ Nghĩa quen gọi điệu hò là bá trạo. Như các cụ cao niên ở đây giải thích, bá, đọc trại từ bách, nghĩa là hàng trăm. Trạo, nghĩa là tay chèo. Còn như ở một vài vùng biển khác dọc từ xứ Quảng vào tới Bình Thuận, người ta gọi là bả trạo, với nghĩa bả, là nắm chắc tay chèo. Xem luyện tập hay khi biểu diễn trong mỗi kỳ lễ hội thì thấy cách gọi nào cũng mang tính ước lệ, đều hợp lý. Bởi khi diễn xướng bài hò, không thể thiếu được các tay chèo. Đội hò bá trạo có thể dao động từ khoảng 20 đến 30 thành viên, nhưng tay chèo, trong biểu diễn gọi là trạo quân luôn phải là số chẵn để bảo đảm tính cân đối. Các trạo quân ấy vừa đóng vai trò mô phỏng chiếc thuyền vượt biển, vừa phụ họa, hò theo lời lĩnh xướng của ba ông tổng, tái hiện một cách sinh động không gian ngư dân lao động trên biển. Từng vị trí các nhân vật trong biểu diễn hò bá trạo sử dụng một cách hài hòa các loại hình nghệ thuật dân gian như diễn tuồng, ngâm, nói lối, vãn… để lột tả một cuộc sống đầy gian truân, vất vả, hiểm nguy nơi sóng nước. Từng lớp lang của điệu hò vừa bồi hồi vừa trắc ẩn trong một không gian nghiêm trang của lễ nghi nhưng cũng mang dáng vẻ, tâm sự rất đỗi đời thường của nghề ngư phủ.

2/Đội bá trạo vẫn nhắc tới đội trưởng đội hò bá trạo cũ Võ Khôi Viên. Cũng giống như những ngư phủ làng khác, từng câu hò, điệu múa đã ngấm vào máu, vào trí não anh từ khi anh là một cậu bé theo cha lên đình xem hát, để sau đó, anh trở thành một trong số ít những người được gọi là “trẻ” hiểu, biết và trình diễn hò bá trạo hay nhất trong vùng.

Trong lời kể của anh Viên, điệu bá trạo thời ký ức thơ trẻ của anh cũng không khác gì thời những bậc cao niên như ông Nguyễn Hoa. Bá trạo, dù trải qua bao nhiêu năm, vẫn vẹn nguyên không khí đó. Anh Viên vẫn thường qua nói chuyện với các cụ, những người thuộc thế hệ cha, chú đã hát hò bá trạo ở làng. Như những gì ông Hoa còn nhớ, thì tuổi của điệu hò còn dài lâu hơn tuổi của làng. Gốc của hò theo người lên thuyền từ xứ Quảng mà tới đây. Bao lớp người qua, nhiều sự thăng trầm, điệu hò bá trạo dù ít nhiều biển đổi, nhưng cũng chưa bao giờ mất đi. Một thời gian sau khi chúng tôi tới Mỹ Nghĩa, người đội trưởng đội bá trạo Võ Khôi Nguyên đã xuất gia. Nhưng mỗi khi có lễ hội, sư thầy vẫn có mặt, vừa cúng lễ, cũng giúp cho đội bá trạo, bày cho những thế hệ sau hát.

3/Chúng tôi tìm tới nhà của chú Sáu, một ngư phủ chính cống, cũng là một tổng lái “số dzách” của đội hò mà người trong làng vẫn gọi. Chú Sáu là người duy nhất trong làng còn giữ lại được bản chép tay bài hò bá trạo được cha mình để lại. Bản chép tay giấy đã cũ, những nét chữ cũng đang mờ dần, nhưng chú vẫn giữ nó như báu vật. Chú bảo, chú giữ, để thế hệ sau còn biết đến một nét đẹp văn hóa của làng biển quê mình. Những ghi chép có thể bị thất lạc, mực viết rồi cũng sẽ phai mầu theo thời gian. Nhưng những gì được lưu truyền bằng cảm nhận, bằng mắt thấy tai nghe thì cứ lặng lẽ mà tiếp nối như một dòng chảy bất tận.

Người làng Mỹ Nghĩa giữ điệu hò, truyền dạy điệu hò phần nhiều bằng cách ấy. Những ngư phủ dạn dày sóng gió biển khơi, mấy ai có thời gian ngồi nhìn câu chữ mà học hát bài bản. Cứ nghe nhau hát, học nhau múa, người già dạy cho người trẻ, người trẻ dạy cho người trẻ hơn, cứ vậy mà bài hò dài là vậy, nhiều lớp lang là vậy, khi hào sảng, khi tha thiết, khi lại ngâm vịnh, lúc lại như lời trò chuyện… mà ai cũng thuộc nằm lòng. Theo nhịp sênh, nhịp phách của người tổng thuyền mà nhịp nhàng đều đặn, khi đồng thanh vang vọng cả.

4/Tới buổi sinh hoạt của đội hò bá trạo, dễ thấy bên cạnh những gương mặt đã hằn dấu sóng gió, còn cả những gương mặt trẻ măng. Những cậu bé chỉ mới 10 - 11 tuổi, cái tuổi vẫn còn mải chơi mải nghịch, nhưng được gọi đến tập hò thì cậu nào cũng háo hức, sung sướng và hãnh diện vì được làm trạo quân, được cầm chèo, được hò phụ. Các anh lớn tập nhiều hơn đã thạo tay chèo, quen nghi lễ. Còn những cậu bé hơn thì vừa nhìn vừa tập, vừa thú vị vừa hồi hộp. Anh Võ Văn Hùng giờ là đội trưởng đội hò bá trạo của làng, cũng là thầy của đội hò thiếu niên, vừa gõ sanh, vừa chỉnh sửa động tác cho từng cậu bé. Giọng hò của các em chưa có được sự hào sảng của tiếng nói át sóng át gió, chưa có niềm phấn chấn mê say vượt qua giông tố biển cả, cũng chưa có được sự xao xuyến nhớ nhung bởi chuỗi ngày lênh đênh sóng gió. Những cậu bé chưa thể đảm nhận được các vị trí quan trọng như tổng lái, tổng thương và tổng mũi trong đội hò, vì giọng hát còn non trẻ, vì khả năng biểu diễn, bởi các em còn thiếu kinh nghiệm. Nhưng tiếng đồng thanh của cái tuổi niên thiếu nghe vừa rộn ràng, lại đầy sức sống của tương lai phía trước.

Hò bá trạo xuất phát từ đời sống của ngư dân, mô phỏng cuộc sống qua lời ca, tiếng nhạc, điệu múa. Những người hát bá trạo, ấy cũng đồng thời là ngư dân dãi dầu mưa nắng, vượt sóng vượt gió, lênh đênh trên biển cả. Điều này mới giúp niềm vui, nhiệt huyết của người con miền biển được gửi gắm linh thiêng và thể hiện trọn vẹn qua lời hát, từng giai điệu bá trạo. Có lẽ, chỉ khi sống nhờ vào biển, gắn bó với biển, đối mặt với tiếng gầm của sóng, tiếng gió rít trong đêm lạnh, giữa không gian bao la của biển thì mới cảm nhận hết và trân trọng ý nghĩa của sự khoáng đạt mà gần gũi, linh thiêng mà sôi nổi của điệu hò bá trạo.

Dẫn chúng tôi xuyên qua làng, anh Hùng bảo thôn Mỹ Nghĩa đã đổi thay nhiều. Làng xưa lạch biển chạy sát nhà, thuyền bè tới lui dập dìu. Theo thời gian, đất xưa bồi đắp dần, làng lui dần vào trong, giờ cách biển tới vài ba cây số. Nhưng người làng thì vẫn giữ nghề biển truyền lại từ thuở cha ông. Ở sân đình, những buổi tập hò bá trạo vẫn tiếp tục, cả khi đêm xuống. Chờ ngày xuân sang, lễ Nghinh Ông tới, những đôi chèo, nậm rượu, cần câu này sẽ lại trình diễn những màn hát xướng hay nhất trong tay ngư phủ. Đó là tiếng hát tri ân vị thần Nam Hải dìu đỡ thuyền qua cơn sóng gió, là tiếng hát tạ ơn lòng biển mẹ bao dung. Ấy cũng là tiếng hát bạn thuyền sẻ chia cùng nhau quãng đời bám biển, mong ngày trở về no ấm, bình yên.

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Những người mẹ đặc biệt

Những người mẹ đặc biệt

Lặng lẽ tồn tại suốt gần 60 năm qua, cô nhi viện Phú Hòa (xã Tịnh Ấn Tây, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) được nhiều người gọi với cái tên “ngôi nhà đặc biệt”, bởi nơi đây có những phụ nữ hy sinh cả đời để trở thành mẹ của hàng trăm đứa trẻ mồ côi, khuyết tật, bị bỏ rơi...

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Cán bộ Công an phường Phù Đổng (TP. Pleiku) hướng dẫn nhân viên Khách sạn Khánh Linh đăng ký lưu trú qua phần mềm dịch vụ công trực tuyến. Ảnh: T.T

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ 1: Khi hệ thống chính trị cùng vào cuộc

(GLO)- Ngày 6-1-2022, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 06/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030” (Đề án 06).

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…